Lữ Giang (Mot Goc Troi)

Hôm 16.5.2010, khi giới thiệu ông Nguyễn Tiến Hưng ra mắt cuốn “Tâm Tư Tổng Thống Thiệu” tại thành phố Westminster, ông Nguyễn Xuân Nghĩa có nói:

 “Không viết lại, là có tội.” Bởi vì, theo ông Nghĩa, “chỉ những người bại trận mới suy nghĩ, tìm hiểu sự bại trận của mình. Còn người thắng trận thì họ mải mê tung hô nhau (làm sai lạc lịch sử) và chia chác những quyền lợi và tài sản chiếm được. Nên, sách của Giáo Sư Nguyễn Tiến Hưng là những dữ liệu giá trị cho chúng ta tìm hiểu. Từ đó xem có thể rút ra được kinh nghiệm giúp ích gì cho chúng ta không.”  (Nguyên Huy, nhật báo Người Việt).

 Quả thật trong ba cuốn sách mà ông Nguyễn Tiến Hưng đã viết để biện hộ cho Tổng Thống Thiệu, có rất nhiều tài liệu ông Hưng công bố và nhiều chuyện ông Hưng kể về ông Thiệu đã làm nhiều người ngạc nhiên, vì từ trước họ không hay biết những tài liệu và những câu chuyện đó. Nhưng rất tiếc ông Hưng chỉ mới viết có một phần sự thật, còn rất nhiều văn kiện và sự kiện khác đã được “giải mã”, nhưng ông Hưng không đưa ra. Điều này sẽ đưa đến ít nhất hai hậu quả đáng lưu ý:

- Hậu quả thứ nhất là những tài liệu và những sự kiện đó chưa đủ để giúp những người bại trận “suy nghĩ, tìm hiểu sự bại trận của mình”, vì thế chưa thể rút ra được những kinh nghiệm hữu ích như ông Nguyễn Xuân Nghĩa mong muốn.

- Hậu quả thứ hai là các thế hệ tới, khi nghiên cứu những tài liệu trong các văn khố để viết sử, sẽ nhận ra chúng ta cũng đã viết sử theo “lề đường bên phải” như đối phương, như kẻ thắng trận... nên không tin cậy vào chúng ta. 

Trong suốt cả buổi nói chuyện, ông Hưng gần như không nói gì đến nội dung cuốn sách mà chỉ kể lại những chuyện ông đã làm. Phải chăng vì sợ nội dung cuốn sách sẽ gây ra nhiều tranh luận ngay trong buổi ra mắt, nên ông tránh né?

Cuốn “Tâm Tư Tổng Thống Thiệu” của ông Hưng gồm có 4 phần và 23 chương, thêm phần phụ lục. Chỉ có phần 1 gồm 16 chương là quan trọng nhất với cái đầu đề Nỗ lực tối đa nhưng tâm tư tan nát trong cảnh miền Nam sụp đổ” Trong phần này ông Hưng cố gắng chứng minh rằng miền Nam sụp đổ là trách nhiệm của nhiều người chứ không phải của riêng ông Thiệu.

Trong bài “Biện hộ hay viết sử” chúng tôi đã dẫn chứng những tài liệu và những hành động chứng minh Tổng Thống Thiệu không hay biết Đồng Minh định làm gì, không biết trò chơi lá mặt lá trái của Mỹ, cứ ôm chặt những lời hứa hẹn hảo huyền của Tổng Thống Nixon, tưởng rằng “sự nghiệp” của mình còn dài, nên đã bảo tay chân bộ hạ sửa đổi hiến pháp để ông có thể ra ứng cử làm tổng thống một nhiệm kỳ nữa!

Trong bài này chúng tôi sẽ chứng minh Tổng Thống Thiệu không biết địch làm gì, cứ suy nghĩ và hành dộng theo cách nhìn chủ quan của ông nên làm mất miền Nam một cách nhanh chóng. Những điều ông Hưng viết ra để biện hộ cho Tổng Thống Thiệu cũng cho thấy cho đến nay, ông Hưng vẫn chưa nắm vững kế hoạch của địch.

Ba cuốn sách của ông Hưng có rất nhiều vấn đề cần được thảo luận lại. Nhưng ở đây chúng tôi chỉ nêu lên những nét chính để độc giả có thể thấy rõ tầm chiến lược của cuộc chiến và trách nhiệm của Tổng Thống Thiệu. 

KẾ HOẠCH TẤN CÔNG CỦA ĐỊCH

1.- Lực lượng của QLVNCH

Đầu năm 1975, QLVNCH vẫn còn có một lực lượng khá hùng hậu, với quân số khoảng 1.351.000 người, trong đó có 495.000 chủ lực quân, 475.000 địa phương quân và 381.000 quân "phòng vệ dân sự" có vũ trang. 

* Lục quân gồm 11 sư đoàn bộ binh, 1 sư đoàn nhảy dù, 1 sư đoàn thủy quân lục chiến, liên đoàn 81 biệt cách dù, 18 liên đoàn biệt động quân (tương đương với 6 sư đoàn), lực lượng Lôi Hổ và Biệt Hải thuộc Nha Kỹ thuật, 4 lữ đoàn kỵ binh thiết giáp (với 2074 xe thiết giáp). Về pháo binh, QLVNCH có 1492 khẩu đại bác (hơn một nửa là 105 ly, 1/4 là 155 ly và khoảng 15% là 175 ly). 

* Không quân có khoảng 60.000 quân, có 5 sư đoàn không quân tác chiến gồm 20 phi đoàn khu trục cơ, 23 phi đoàn trực thăng, 1 sư đoàn vận tải, 1 không đoàn tân trang chế tạo, 4 phi đoàn hỏa long, v.v, với 1850 phi cơ các loại (trong đó có 510 máy bay chiến đấu và 900 trực thăng). 

* Hải quân có hơn 40.000 quân, gồm 3 lực lượng tác chiến:

(1) Hành quân lưu động sông (với 14 giang đoàn trang bị khoảng 260 chiến đỉnh),

(2) Hành quân lưu động biển (một hạm đội trang bị tuần dương hạm, hộ tống hạm, khu trục hạm, tuần duyên hạm, giang pháo hạm, trợ chiến hạm, dương vận hạm, hải vận hạm và giang vận hạm)

(3) các lực lượng đặc nhiệm, trong đó có Liên đoàn Người nhái. 

Trên đây chỉ là những nét đại cương. Với một lực lượng phòng thủ miền Nam hùng hậu như thế, địch phải lập một kế hoạch tinh vi mới có thể đánh chiếm được. 

2.- Kế hoạch tấn công của địch

Sau khi ký xong Hiệp Định Paris ngày 27.1.1973, Hà Nội lập ngay kế hoạch đánh chiếm miền Nam. Kế hoạch đó gồm những điểm chính như sau: 

(1) Làm lại quốc lộ 14 do Pháp thiết lập trước chiến tranh Đông Dương và chính phủ Ngô Đình Diệm sửa chửa lại để bảo vệ miền Nam. Đây là con đường xương sống của miền Nam. Con đường này khởi đầu từ Khe Cát, Bố Trạch, Quảng Bình, chạy tới Lộc Ninh, thường được gọi là đường Đông Trường Sơn, với chiều dài khoảng 1380 cây số. Hà Nội cho biết nếu phải vận chuyển bằng con đường Tây Trường Sơn trên đất Lào, từ Nghệ Tĩnh vào đến tam biên như trước đây, quân đội Bắc Việt phải mất ít nhất 6 tháng. Trái lại, nếu vận chuyển bằng đường Đông Trường Sơn trên lãnh thổ miền Nam, chỉ mất có một tháng. 

(2) Đặt một hệ thống ống dẫn dầu dọc theo con đường Đông Trường Sơn đi ngoằn ngoèo từ Quảng Bình đến Lộc Ninh dài khoảng 5.000 cây số để có thể tiếp tế dầu cho khoảng 10.000 xe các loại vào ra trên đường, nhất là cung cấp xăng cho xe tăng. 

(3) Phá vỡ bằng mọi giá hai cái chốt chặn sự lưu thông trên đường Đông Trường Sơn, đó là chốt Thường Đức ờ phía tây Đà Nẵng và chốt Đức Lập thuộc tỉnh Quảng Đức ở phiá tây Ban Mê Thuộc. Đây là hai cái chốt trước đây đã được quân đội Pháp cũng như quân đội Mỹ giữ bằng mọi giá. 

(4) Đánh chiếm Phước Long để làm nơi tập trung quân và tiếp liệu đánh thẳng vào Sài Gòn, đầu nảo của VNCH, bỏ qua các tỉnh miền Trung. 

Tướng Trần Văn Trà cho biết theo chỉ thị của Bộ Tổng Tham Mưu ở Hà Nội, năm 1975 đòn chủ lực là “mở hành lang chiến lược Đức Lập cho thông suốt và tiêu diệt sinh lực địch... Kế hoạch của Bộ Tổng Tham Mưu năm 1975, chỉ đámh nhỏ, phá bình định, mở hành lang và ép Sài Gòn, chuẩn bị cho năm 1976 mới đánh lớn”.

(Trần Văn Trà, “Kết thúc cuộc chiến tranh 30 năm”, 1982, tr. 160)

KHÔNG BIẾT ĐỊCH LÀM GÌ!

Ông Nguyễn Tiến Hưng đã trích dẫn khá nhiều đoạn trong cuốn Những ngày cuối cùng của Việt Nam Cộng Hoà của Đại Tướng Cao Văn Viên, nguyên Tổng Tham Mưu Trưởng QLVNCH, để biện hộ cho Tổng Thống Thiệu. Nhưng cuốn này lại cho chúng ta thấy rõ hơn sự yếu kém trong cách nhìn cuộc chiến của Tổng Thống Thiệu và trách nhiệm của ông.

Trong cả cuốn sách, không có đoạn nào cho thấy Tổng Thống Thiệu đã nhìn ra kế hoạch đánh chiếm miền Nam của Hà Nội. Ông chỉ nhìn vào các hiện tượng rồi đưa ra quyết định đối phó.

Để thực hiện kế hoạch nói trên, trước hết Cộng quân dùng chiến thuật đánh nghi binh vào Vùng I để QLVNCH tưởng Cộng quân sẽ chiếm Huế.

Đại Tướng Cao Viên Viên ghi lại rằng một cán bộ thuộc tỉnh ủy Lâm Đồng hồi chánh cho biết Cộng quân đang dự tính những cuộc tấn công chiến lược vào Huế và Đà Nẵng. (tr. 67). Trong khi đó Tướng Ngô Quang Trưởng báo cáo rằng địch đã tập trung khoảng 90.000 quân tinh nhuệ ở Vùng I với pháo binh và xe tăng hùng hậu. Vì thế bất cứ lúc nào địch cũng có thể mở cuộc tấn công lớn ở địa bàn quân khu.

Mặc dầu lúc đó tại Vùng I đã có 3 sư đoàn bộ binh, 4 liên đoàn Biệt Động Quân. 5 thiết đoàn và 13 chi đội xe tăng (gồm 477 xe), 1 sư đoàn không quân (có 96 chiến đấu cơ), 418 khẩu pháo, v.v, Tổng Thống Thiệu đã cho hai sư đoàn trừ bị thiện chiến nhất của QLVNCH là sư đoàn Dù và sư đoàn TQLC ra đóng ở Vùng I luôn (để khỏi làm đảo chánh)!

Dĩ nhiên là Cơ Quan Tùy Viên Quân Sự Mỹ (USDAO) nắm được chiến lược và chiến thuật của địch và đã lưu ý VNCH, nhưng Tổng Thống Thiệu không có tầm nhìm chiến lược, nên không quan tâm.

DAO cho Tướng Trưởng biết Cộng quân sẽ đưa một lực lượng lớn đánh chiếm chốt Thường Đức ở phía tây Đà Nẵng, để khai thông con đường Đông Trường Sơn. Có lẽ không thấy rõ tầm quan trọng số 1 của cái chốt này, Tướng Trưởng chỉ cho tiểu đoàn 79 BĐQ đến giữ. Sáng 7.8.1974, Thường Đức bị thất thủ, Tướng Trưởng hoảng hồn, đã ra lệnh cho sư đoàn Dù phải lấy lại bằng mọi giá. Ngày 8.11.1974, lực lượng Dù bắt đầu mở cuộc phản công nhưng chỉ chiếm lại được đồi 1062 ở phía đông Thường Đức với tổn thất nặng, bị chết và bị thương lên đến 50%.

DAO cũng cho biết Cộng quân sẽ chiếm Phước Long làm cứ đại tập trung quân và tiếp liệu để đánh thẳng vào Sài Gòn. Vì sợ đảo chánh, Tổng Thống Thiệu đã ra lệnh mỗi khi mở cuộc hành quân từ cấp trung đoàn trở lên phải xin phép Tổng Thống, nên Tướng Dư Quốc Đống, Tư Lệnh Quân Đoàn III phải lập kế hoạch phòng thủ Phước Long và trình lên Tổng Thống quyết định. Nhưng Tướng Viên cho biết một cuộc họp tại Dinh Độc Lập đã nhận định rằng Phước Long không quan trọng bằng Tây Ninh, Pleiku hay Huế, nên củng cố lực lượng để giữa những nơi đó hơn là giử Phước Long (tr. 108). Điều này cho thấy Tổng Thống Thiệu và BTTM không biết gì về chiến lược và chiến thuật của địch.

Tuy quyết định bỏ Phước Long, nhưng lại không muốn chịu trách nhiệm, Tổng Thống đã rút bàn phúc trình phòng vệ Phước Long của Quân Đoàn III lên và phê: “Báo Trung Tướng điều nghiên, tùy nghi quyết định. Cần lưu ý động viên các chiến hữu tử thủ.” Đây là cách chạy trốn trách nhiệm thông thường của Tổng Thống Thiệu!

Sau khi Phước Long bị mất, Tướng Đống yêu cầu Tổng Thống Thiệu cho mượn sư đoàn Dù để lấy lại Phước Long. Ông Thiệu từ chối nên Tướng Đống liền xin từ chức.

Đại Tá Trịnh Tiếu, Trưởng Phòng Nhì Quân Đoàn II, có kể lại rằng trong một buổi họp tại Ban Mê Thuộc để lượng định tình hình xem Cộng quân sẽ đánh chiếm vị trí nào ở Cao Nguyên. Trong khi Tướng Nguyễn Văn Phú cho rằng địch sẽ đánh Pleiku, viên tùy viên quân sự Mỹ (DOA) chỉ nói có một câu Chúng nó sẽ đánh Ban Mê Thuột”, rồi bỏ phòng họp ra đi.

Cơ quan DAO biết Cộng quân sẽ chiếm cái chốt Đức Lập ở Quảng Đức, phía tây Ban Mê Thuộc, để khai thông con đường 14, đưa quân xuống Phước Long. Muốn giữa Đức Lập phải chiếm luôn Ban Mê Thuột. Tướng Phú chẳng hiểu gì kế hoạch của địch nên không thể tiên đoán được Cộng quân sẽ chiếm Ban Mê Thuột.

Một vài nét tóm lược ở trên cũng đủ để cho chúng ta nhận ra rằng Tổng Thống Thiệu không hề hay biết kế hoạch đánh chiếm miền Nam của Hà Nội. Ông chỉ căn cứ vào các hiện tượng đang diễn ra để đối phó. Nói cách khác ông đã đặt QLVNCH vào cái thế hoàn toàn bị động. 

HÀNH ĐỘNG THEO SỐ VIỆN TRỢ

Các tài liệu do ông Hưng tiết lộ trong ba cuốn sách cho chúng ta thấy Tổng Thống Thiệu coi viện trợ Mỹ là trên hết. Mỹ viện trợ nhiều ta giữ nước nhiều, Mỹ viện trợ ít thì thu nhỏ lãnh thổ lại. Ông làm như miền Nam là của Mỹ, còn ông chỉ là lính đánh thuê.

Ông Hưng cho biết ông Thiệu có tiết lộ với ông rằng năm 1963 ông ta tham gia đảo chánh lật đổ Tổng Thống Ngô Đình Diệm vì Dương Văn Minh có nói với ông rằng nếu không lật đổ ông Diệm, Mỹ sẽ cắt viện trợ, nên ông đã tham gia! Ông khồng cần quan tâm đến chủ quyền quốc gia là gì!

Số viện trợ quân sự Mỹ cho VNCH đã bị giảm lần như sau:

- 1972 – 1973: 1 tỷ 614 triệu.

- 1973 – 1974: 1 tỷ 026 triệu.

- 1974 – 1975: 700 triệu. 

Trong cuốn “Khi Đồng Minh Tháo Chạy”, ông Hưng có kể lại rằng ông có được đọc trong “Phòng Tình Hình” của Dinh Độc Lâp một tập báo cáo do Tướng John Murray (người thay Tướng Abraham) và Bộ Tổng Tham Mưu trình lên, trong đó ghi những điểm mà ông nhớ được như sau:

- Nếu mức độ quân viện là 1,4 tỷ thì có thể giữ được tất cả những khu đông dân cư của cả bốn Vùng Chiến Thuật.

- Nếu là 1,1 tỷ thì Quân Khu I phải bỏ;

- Nếu là 900 triệu thì khó lòng giữ được QK I và II, hoặc khó đương đầu với cuộc tấn công của Bắc Việt;

- Nếu là 750 triệu thì chỉ có thể phòng thủ vài khu vực chọn lọc, và khó điều đình được với Bắc Việt;

- Nếu quân viện dưới 600 triệu thì chính phủ VNCH chỉ còn giữ được Sài Gòn và vùng châu thổ song Cửu Long. 

Ông Hương cho biết Tướng John Murray kết luận: “Tôi có thể ví sự mất tiền xấp xỉ như mất đất vậy.”

Ông Hưng cho rằng vì bản báo cáo này, ông Thiệu đã nghĩ ra chiến lược mới “Đầu bé đít to”, tức bỏ Vùng I và II (đầu). Ông Thiệu thường nói: Từng chiến lược cho từng mức viện trợ.” (tr. 235), sau đó ông dùng chữ “tái phối trí”.

Trong cuốn “Tâm Tư Tổng Thống Thiệu”, ông Hưng cũng đã nhắc lại sự kiện nói trên (tr. 41, 43) như để biện minh rằng sơ dĩ Tổng Thống Thiệu đưa ra kết hoạch “Đầu bé đít to”, rút quân khỏi Vùng I và Vùng II về lập phòng tuyến ở Tuy Hoà, là do đề nghị của Tướng Murray và Bộ Tổng Tham Mưu, chứ không phải là do chủ trương của ông Thiệu. Nhưng lời biện minh này lại trở thành gậy ông đập lưng ông.

Trước hết, bản báo cáo mà ông Hưng nhắc đến ở trên nếu đúng là của Tướng Murray và Bộ Tổng Tham Mưu thì đó cũng chỉ là một bản phân tích tình hình chứ không phải là một giải pháp hay một kế hoạch hành động được đề nghị.

Khi số viện trợ bị giảm dần, trước hết Tổng Tống phải bàn với các nhà chính trị để xem có thể tìm một lối thoát nào cho miền Nam hay không. Giả thiết nếu không còn một giải pháp chính trị nào khác nên đành “tái phố trí”, thì kế hoạch “tái phối trí” phải khả thi.

Tổng Thống Thiệu đã không hành động một cách khoa học như vậy. Ông chỉ căn cứ vào số tiền viện trợ để quyết định phần đất có thể giữ.

Khi số viện trợ rút xuống còn 700 triệu, ông quyết định chỉ giữ phần đất từ Tuy Hoà trở vào và giao cho Trung Tướng Đặng Văn Quang và Chuẩn Tướng Ted Sarong (một tướng chống du kích người Uc) lập kế hoạch hình thành một phòng tuyến mới từ Tuy Hoà đến Tây Ninh.

Vào khoảng đầu năm 1975, kế hoạch này đã được tiết lộ cho một số nhà quân sự và chính trị tại Sài Gòn để thăm dò. Đa số đều cho rằng kế hoạch đó bất khả thi. Thứ nhất là từ Tuy Hoà đến Tây Ninh không có địa thế thích hợp để lập phòng tuyến. Thứ hai, muốn rút quân từ Huế, Đà Nẵng, Quảng Nam, Quảng Tín, Quảng Ngãi và Bình Định về Tuy Hoà một cách yên ổn, cần có một hiệp định giao những tỉnh này lại cho Việt Cộng như Hiệp Định Grnève năm 1954. Hiệp định này chắc chắn sẽ bị quân đội và dân chúng chống đối mãnh liệt và chính phủ sẽ sup đổ, nên không thể thực hiện được.

Nếu rút quân theo kiểu “tái phối trí”, đoàn quân sẽ tan rả vì vừa bị quần chúng ùn ùn kéo theo vừa bị địch truy kích.

Mặc dầu những nhận định trên đây là rất chính xác, Tổng Thống Thiệu vẫn không quan tâm, ông nhất quyết thực hiện chủ trương của ông. Lợi dụng Ban Mê Thuật bị thất thủ, Tổng Thống ra lệnh rút Quân Đoàn II và Quân Đoàn I về lập phòng tuyền tại Tuy Hoà. Cuộc rút quân này đã dưa đoàn quân đến sự tan rả, gây ra nhiều chết chóc tang thương cho các binh sĩ cũng như quần chúng. Cuối cùng, Tổng Thống Thiệu ra lệnh cho Hải Quân chỉ bốc Thủy Quân Lục Chiến khỏi Đà Nẵng, bỏ lại các binh chủng khác cho địch. Một trung đội TQLC đã được đưa lên bố trí trên đèo Hải Vân để giữ cho sư đoàn TQLC rút và trung đội này đã bị hi sinh.

Cho đến khi miền Nam không còn phương thức cứu chửa, Mỹ đã ép buộc Tổng Thống Thiệu từ chức và dụ Tướng Dương Văn Minh lên để đầu hàng. Nhưng Tổng Thống Thiệu không hay biết gì điều đó, vẫn còn hỏi Đại Sứ Martin:

“Nếu tôi từ chức, viện trợ Mỹ có đến không?” 

Đại Sứ Martin trả lời:

“Tôi không dám hứa nhưng có thể có”. 

Chỉ đọc một vài đoạn trên, chúng ta cũng có thể kết luận Tổng Thống Thiệu biết rất ít về quân sự và chính trị, cứ hành động theo sự suy nghĩ chủ quan của mình, nhưng lại giành quyền lãnh đạo cả chính trị lẫn quân sự, mất nước là chuyện đương nhiên. 

Ngày 8.6.2010

Lữ Giang