Khi chiếm xong miền Nam CSVN nhân danh là kẻ chiến thắng đã phủ chụp lên những lãnh đạo miền Nam biết bao tội danh bỉ ổi nào là “lấy 16 tấn vàng đi ra ngoại quốc ” nào “bán nước cho đế quốc Mỹ ” nhưng thời gian dần qua sự thực là sự thực. AI bán nước? Ai tẩu tán vàng? phải chăng là bè lũ tội đồ CSVN đang bán nước hại dân chễm chệ hiện nay tại Hà nội.


Video Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu trong ngày Quân Lực VNCH (19-6-1973?)

Chính ông Nguyễn Văn Thiệu người mà CSVN phủ chụp cho bao điều “hèn mạt” nhất nhưng chính người trong cuộc là cựu ngọai trưởng Mỹ Kissinger cũng viết vài dòng cảm phục trong hồi ký của ông. Về một người chịu bao đắng cay và nhục nhằn để bảo tòan đất nước và vì an nguy dân tộc.

Lời dẫn: Trong cuốn hồi ký “NHỮNG NĂM THÁNG BIẾN ĐỘNG (YEARS OF UPHEAVAL)" cựu ngoại trưởng Henry Kissinger đã dành khoảng 6 trang viết về TT Nguyễn văn Thiệu trong dịp TT Thiệu đến San Clemente Hoa kỳ sau ký kết hiệp định Ba Lê 27/1/1973. Là đạo diễn chính cho hiệp định này, Kissinger lngười cảm nhận sự chống đối quyết liệt nhất từ TT Thiệu; thêm vào đó ông biết mình là kẻ quyền năng cho thời vận một nước đồng minh nhỏ bé là miền Nam VN.

Từ đó ác cảm gia tăng giữa hai ngừơi: Một kẻ từng là “quân sư” cho cố TT Richard Nixon, cường quốc số 1 Hoa kỳ. Phía đồng minh TT Thiệu, nhà lãnh đạo của một nhược tiểu tuy mang tiếng đồng minh, thân hữu nhưng bó tay trong mọi quyết định tối quan trọng. Ông Kissinger tuy đã làm xong nhiệm vụ của ông ta – một công thần nước Mỹ. Những ngày sau này khi hồi hưu, trong hồi ký chúng ta hi vọng ông Kissinger đối diện với lương tâm và sự thật viết lại những cảm nghĩ của ông về TT Nguyễn văn Thiệu.

Hơn nữa hi vọng không còn sức ép nào để ông ta viết sai đi. Điểm chú ý chúng ta có thể nghĩ ra, ông Kissinger có thể xem thường TT Thiệu vì miền Nam lệ thuộc hoàn toàn vào viên trợ Mỹ nhưng ông ta không thể xem khinh TT Thiệu được. Trong hồi ký này ông Kissinger cũng thổ lộ những bất công từ báo chí Tây phưong cùng những cay đắng từ định kiến công luận Phương Tây vốn dĩ bị lèo lái theo truyền thông thiên tả.

Trích dịch: Xuân Khê
Lưu ý: trích dịch này hoàn toàn dành cho biên khảo và học thuật tuyệt đối không dành cho công việc thương mãi nào. Warning: The translation is for a quote in the research- absolutely not for any commercial aim (Xuân Khê)

YEARS OF UPHEAVAL Henry Kissinger (NHỮNG NĂM BIẾN ĐỘNG)

Ông (*) Thiệu viếng San Clemente Trước khi chúng ta (**) để tâm đến chuyện vi phạm của miền Bắc VN, chúng ta phải quan tâm đến một phấn nhỏ của đàm phán là cam kết của chúng ta(Hoa kỳ)đối với đồng minh tổng thống VNCH phải có cơ hội tới thăm tt Hoa kỳ như là phần khích lệ đi sau việc ngưng bắn. Ông Thiệu đã nhiều tháng liền chống đối lại thỏa hiệp hòa bình chia cắt đất nước ông ta. Các điều khoản của hiệp ươc Ba lê còn tốt hơn ngay cả kẻ chỉ trích hay ủng hộ chúng ta đã nghĩ.

Về đề xuất thương thảo phía ông Thiệu tự chấp thuận đề án 3năm trong lúc phía Bắc Việt khó lòng chấp nhận chuyện này. Nếu chuyện này thành,ông ta đã khéo léo đưa trách nhiệm lên vai chúng ta. Cái ông ta cần là tiếp tục chiến đấu cho đến khi kẻ xâm lăng cuối cùng ra khỏi lãnh thổ. Đây không phải là điều sai của ông mà công luận Hoa kỳ thì lại không chấp nhận. Ông Thiệu chống lại chúng ta(Hoa kỳ) bằng chiến thuật kiên trì … chúng ta cả hai đều đồng đến một kết luận, một miền Nam VN an toàn về lảnh thổ.

Những ai trong chúng ta dự phần vào thương thảo hòa ước Ba lê đều không quá nghi ngờ cũng như không quá ngây thơ. Chúng ta nghĩ rằng Băc Việt sẽ gia tăng sức ép, nhưng chúng ta đã ngưng gia tăng mọi lực lượng và quốc hội chúng ta sẽ bỏ phiếu bắt buộc chúng ta bước ra khỏi cuộc chiến này vô điều kiện nếu chúng ta vượt quá giới hạn. Hoa kỳ hi vọng rằng thế bế tắc về quân sự ít nhất sẽ bảo đảm tính an toàn và có thể dẫn đến cuộc nói chuyện tay đôi giữa các phía VN với nhau. Ông Thiệu luôn nhìn vào chuyện trước mắt là quan trọng nhất. Cái gần nhất với ông không phải là hòa bình sau cùng mà địch quân trước mắt.

Sau khi ngưng bắn, quân đội chúng ta sẽ rút về bên kia bán cầu, còn dân tộc của ông vẫn còn cảnh một đội quân tiếp tục hi sinh cho những hy vọng mong manh của nền độc lập tại Đông Dương. Chúng ta đã chắc rằng biện pháp của chúng ta sẽ kềm hãm tham vọng của Hà nôi. Nhưng mắt của ông Thiệu chỉ chú mục vào những điều không chắc chắn về lâu dài. Về căn bản ông Thiệu có thể đúng, vì chuyện là nôi các TT Nixon không thể chống đối nỗi những quyết định từ quốc nội và nếu giá dư có thuận lợi chăng thì nội các đó cũng tránh né ý niệm về trách nhiệm của chúng ta.

Ông Thiệu càng lúc càng ghét cay ghét đắng tôi vì vai trò kiến trúc sư của tôi về thỏa ước hòa bình này. Trong lúc này tôi chỉ biết thông cảm sâu xa về nỗi bực tức của ông, nhưng chúng ta không có chọn lựa nào khác. Hoa kỳ không thể phủ quyết khi Hà nội đã chấp thuận, những điều khoản rất hòa bình chúng ta đã đề ra với sự chấp thuận của ông Thiệu cho thời hạn ba năm. Cho đến hôm nay tôi kính trọng ông Thiệu như là một gương hào hùng của một kẻ dám chiến đấu cho nền tự do dân tộc của ông, một kẻ sau này đã chiến bại bởi những hoàn cảnh ngoài tầm tay cá nhân ông, đất nước ông và ngay cả ngoài vòng quyết định của chúng ta. Ông Thiệu viếng Hoa kỳ từ hôm 2/4/1973.\

Chúng ta chẳng được chút gì tự hào về chuyến viếng thăm này. Suốt cuộc chiến vừa qua chúng ta chiến đấu vai bên vai với người dân đất nước ông, rất khó lòng chấp nhận ông vào thăm trong nội địa Hoa kỳ vì một nỗi e ngại sự chống đối của dân chúng. TT Hoa kỳ và ông đã kín đáo gặp nhau lần lượt tại Guam, Hawaii, và tại Midway. Ông Thiệu chưa bao giờ được phép đặt chân vào nội địa Hoa kỳ. Chuyến viếng thăm của ông Thiệu vào Hoa kỳ năm 1973 là cố tâm tạo dựng một biểu tượng về mối dây giao hảo trong giai đoạn hòa bình mới mà sự hi sinh của chúng ta dành cho một miền Nam tự do. Chuyện gần như hoàn toàn trái ngược.

Sự chấm dứt chiến tranh chưa hẳn làm thôi nguy cơ chống đối của công chúng. Do đó chúng ta phải tiếp đón nhà lãnh đạo một nước đồng minh tại tòa ‘‘Bạch Ốc tại bờ Tây” tức là San Clemente, mà hàng chục ngàn sinh mạng người Mỹ cùng đồng minh và hàng trăm ngàn sinh mạng người VN phải hi sinh cho nền tự do của họ. Những buổi lễ tiếp đón và đưa tiễn phải bị thu hẹp lại cơ ngơi của TT cùng canh gác nghiêm nhặt. Ngay cả buôi tiệc tối quốc gia cũng phải chuyển đổi thành bữa tiếp tân gia đình.

Lý do bào chữa của TT Nixon vì phòng ăn tối chỉ đủ chỗ không quá mười hai khách nhưng thực ra vì mời nhiều khách khứa sẽ mang lại nỗi e sợ những vị khách quá khích chống đối. Nhằm thực hiện lời hứa, phó TT Spiro Agnew được chọn làm vai trò chủ nhân tiếp đãi tại thủ đô. Tình cảnh buổi tiếp đó ông Agnew tiết lộ chớp nhoáng với tôi qua điện thoại trước khi phi cơ chở ông Thiệu hạ cánh. Agnew phàn nàn rằng chỉ có một nhân vật chính phủ là ông bộ trưởng lao động Peter J. Brennan đi theo để đón ông Thiệu thôi. Chỉ có một ít khách dự bữa tối đó với ông phó TT.

Những nhân vật cao cấp trong nội các thì tìm cớ để ra khỏi thành phố lúc này. Đây là điều hổ thẹn vì những ngày tôi tùng sự tại Hoa thịnh Đốn mốt số nhân vật lãnh đạo Cộng Sản đã được tiếp đón một cách danh dự. Những giới chức cao cấp giành nhau đến dự cho được buổi dạ tiệc nhằm vinh danh những nhân vật trung lập đặc biệt họ từng chỉ trích nặng nề Hoa kỳ chúng ta. Nhưng một tổng thống chung thủy với một nước bạn bè thì chúng ta hững hờ phó mặc. Những kẻ này đã lấy lý do về những khiếm khuyết dân chủ của ông ta làm lý do bào chữa và đẩy đưa cả dân tộc ông về phía kẻ thù của dân chủ. Không có sự kiện thuyền nhân chạy trốn khỏi VN khi ông Thiệu còn tại chức.

Rõ ràng hàng triệu bàn chân trốn chạy về vùng ông Thiệu kiểm soát tránh xa vùng đất CS chiếm đóng tức đã bầu cho ông ta rồi. Thói thường hay đổ tội cho việc dội bom của chúng ta nhưng sau này chắc hẳn một điều là đó là phản ứng đối với tính bạo tàn của chế độ CS. Ông Thiệu từng bước cố gằng mở rộng cơ cấu chính quyền – tuy chưa đầy đủ- ngay cả trong vùng CS kiểm soát nơi đó các giới chức của ông dễ thành mục tiêu. Theo phê phán của ông thì chuyện này chưa có lợi lộc nào cả. Theo cảm nhận từ chúng ta, điều có phần chắc miền Nam VN mới chỉ phôi thai tạo dựng một thể chế dân chủ. Cũng có những phê phán công bình về sự hà khắc cùng tham nhũng.

Nhưng những khi phe đối lập của ông Thiệu trình bày những rắc rối từ nền chính trị đa nguyên tại Sài gòn tới giới báo chí chúng ta thì chúng ta chưa ai so sánh với Hà nội cả, một nơi mà đối lập chưa bao giờ được chấp nhận, báo chí bị kiểm soát và sự liên lạc với truyền thông ngoại quốc hoàn toàn bị cấm đoán. Nói gọn đi đòi hỏi này thật khó lòng đáp ứng cho được tình thuận lợi cho cách nhìn kiểu Mỹ đối với ông Thiệu. Kh tôi thăm dò bạn bè Âu châu về chuyến thăm của Ông Thiệu đến Hoa kỳ ngay cả khi kết hợp công du hay cá nhân, có một sự im lặng khó hiểu.

Ông và ngay cả ngoại trưởng của ông cũng chưa bao giờ được tiếp đón tại thủ đô các nước đồng minh ngoại trừ Ba Lê nơi diễn ra hòa đàm - một tiến trình giải thể chính phủ ông Thiệu - bước đầu tiên trong việc bỏ rơi- diễn khá hay. Trong lúc đó, bà Nguyễn thị Bình, cái gọi là bộ trưởng ngoại giao cho chính phủ MA: CHÍNH PHỦ CÁCH MẠNG LÂM THỜI CỘNG SẢN, chưa hề có khả năng trình ra ngay cả một nơi làm thủ đô thì lại được tiếp trọng thể tại Đông Âu. Thật là một hiện tượng lạ đời, ngừơi ta cứ tự ru ngủ mình bằng cách cứ thuyết phục những người đứng đắn và chân thiện hướng chuyện phẩn nộ về đạo đức vào cái gọi là bảo thủ. Trong cuộc chiến tại Âu châu có khẩu hiệu ” không có quân thù ở cánh tả ” Vào những năm sau chiến tranh báo chí Tây Phương dãy đầy chuyện vi phạm từ các chế độ như Tây ban Nha, Bồ đào Nha, Nam Hàn, Hy lạp, Ba tư, Nam VN và một số khác.

Trong khi đó có nhiều nước những cái gọi là “dân chủ nhân dân ” đáng bị kiềm chế đáng phải hối cải về những chuyện tàn ác của họ vẫn tại Đông Âu hay chế độ chuyên chế thiên tả Thế giới Thứ Ba và dĩ nhiên có Cộng sản Bắc Việt. Đừng bao giờ cho rằng các chế độ “tiến bộ” là đầy tớ của nhân dân- các thử thách về lòng trung thành phục vụ dân chúng - bởi vì các chế độ này hoàn toàn là những thể chế toàn trị mà những chế độ bảo thủ thường gặp rối loạn vì họ không có cả lý thuyết lẫn công cụ để đàn áp có hiệu quả. Đừng cho là các thể chế bảo thủ sẽ để yên cho lân bang và có trường hợp sẽ tự phát triển thành các thể chế dân chủ (Tây ban Nha, Hy lạp, Bồ đào Nha) khi quân đội Sô viết áp đặt ý muốn họ lên thế giới lấy danh nghĩa chủ thuyết đại đồng. Chưa hề có ghi nhận nào về sự tiến triển tốt đẹp cho các chế độ chính trị ở Thế giới Thứ Ba vào thời hậu chiến.

Làn sóng di dân ào ạt vào thời đại chúng ta luôn luôn phát xuất từ các nước CS chứ không hề theo chiều ngược lại. Thê mà vẩn còn những thói khinh mạng, xúc phạm cùng đối xử bất xứng để dành cho cho bạn bè Tây phương chúng ta như trường hợp ông Thiệu năm 1973 và sau này là Vua Shah của Ba Tư cùng trong cùng thập kỷ… [skipped unrelated passages…]. Đất nước ông Thiệu bị tấn công bởi nhiều mặt trận, trước tiên là lực lượng du kích được Hà nội trang bị cùng huấn luyện và tiếp đến là sự xâm lăng ào ạt của lực lượng chính quy từ Bắc VN.

Tuy thế chính phủ Hoa kỳ vẫn cố gắng gia tăng áp lực thúc đẩy vấn đề tổng tuyển cử và linh động trong thương thuyết phần nào tránh được sự lên án và xoa dịu chỉ trích dai dẳng tại quốc nội. Như là một phép lạ phát xuất từ lòng dũng cảm, ông Thiệu đã cố gắng lèo lái quốc gia trong giai đoạn cam go này, chiến đấu chống lại quân thù cố tâm xâm lấn và làm an tâm đồng minh nào chưa thông hiểu ông. Ông nổi bật với thỏa ứớc 1973 trong đó Hà nội phải từ bỏ những đòi hỏi về chính trị từ bao lâu nay mà quay lại cho vấn đề ngưng bắn còn tốt hơn chúng ta mong đợi, tuy còn bấp bênh theo kỳ vọng của ông.

Về riêng tư tuy tôi dành ít cảm tình về ông Thiệu nhưng tôi rất kính nể ông vì ông là một người kiên tâm chiến đấu trong nỗi cô đơn ghê gớm (nguyên văn: terrible loneliness) sau cuộc rút quân của Hoa kỳ. Ông chấp nhận những cảm tình và thông hiểu ít ỏi dành cho ông. Chuyện đó không làm phẩm chất của ông hao mòn đi. Dù rằng nguyên thủ chúng ta đã tổ chức buổi đón rước ông với sự thiếu vắng từ phía công chúng, phản ứng của ông xem như là chuyện thường tình trên thế giới này. Tại San Clemente, trong bài diễn văn lịch sự dành cho ông, TT Nixon có ám chỉ đến khả năng tự bảo vệ của miền Nam VN - một ý niệm nghi ngờ khi Hà Nội dốc toàn lực tấn công với vũ khí của Liên xô.

Thật lạ như chuyện thần kỳ ông không vội suy sụp ngay khi so sánh với thực tế miền Nam với Châu Âu sau thế chiến Hai chúng ta đã duy trì 300,000 quân Mỹ ở lại tới một phần tư thế kỷ! Sau các nghi thức buổi lễ, hai nhà lãnh đạo tiếp tục nói chuyện riêng với nhau. Thực sự, chẳng còn gì nhiều để bàn thảo thêm nữa . Ông chẳng hề kêu van về công chuyện chúng ta bỏ lại cho ông và ngay cả cái dã tâm từ phía Hà nội. Nhưng ông đưa ra một một sự kiện thưc tế trước mắt chúng ta là vi phạm từ phía Bắc Việt. Về riêng tư TT Nixon có bảo đảm với ông-cũng như TT đã từng công bố vào hôm 15 tháng Ba và vài nơi khác – rằng TT sẽ chống lại những vi phạm trắng trợn đó bằng vũ lực nếu thấy cần thiết. Cùng một lúc TT(tức Nixon) vừa năn nỉ vừa dọa dẫm ông Thiệu bắt miền Nam phải thi hành những điều khoản của hiệp định đề ra.

Ông Nixon còn nhắn nhủ nếu có thất bại nào về Hiệp ước Ba lê thì rõ ràng trách nhiệm thuộc về cánh Hà nội. Ông Thiệu chỉ rõ trở ngại chính về sự thành lập Ủy Ban Hòa Giải Hòa Hợp Dân Tộc do Hiệp ước đề ra là do Hà Nội từ chối cuộc tổng tuyển cử do ủy ban này giám sát. “Cuộc tranh đua về chính trị” này đã được một số người Mỹ nhiệt liệt tán thành cùng ủng hộ trong thời kỳ đang xảy ra chiến tranh nhưng sẽ không bao giờ được phía Hà nội thi hành lúc hòa bình. Cuộc tranh đấu bằng bầu cử, loại hình từng bị coi thường ngay trong chính quốc gia của nó nhưng nó không bao giờ gây mất mát cho cả một thế hệ nào. Sang ngày thảo luận thứ hai hai Ông Nixon và Ông Thiệu quan tâm vấn đề viện trợ cho miền Nam VN.

Có một điều chưa thực tế cho lắm đối với các bên liên quan, vì người ta biết rằng sự ủng hộ của Quốc hội chúng ta ngay cả việc giúp đỡ phát triển về kinh tế cho miền Nam cũng thu hẹp lại quá mau. Phía Tự Do (Liberals) thì thấy không còn lợi lộc gì vì họ đã mất dần cam kết giúp cho Miền Nam sống còn, phía Bảo Thủ thì muốn tin rằng họ phải hoàn thành nhiệm vụ làm sao giúp cho cuộc chiến này chấm dứt trong danh dự. Hai phía đều biểu hiệu sự mệt mỏi của quốc gia. Ông Nixon hứa sẽ xem lời yêu cầu viện trợ của Sài Gòn làm mục tiêu trước mắt. Nhưng chuyện còn tùy thuộc vào ý kiến từ Quốc Hội.

Ông Thiệu đã nhận được lời hứa trên thông cáo chung chính phủ rằng hai đồng minh sẽ duy trì “TÍNH CẢNH GIÁC” nhằm chống lại “SỰ TÁI TỤC TẤN CÔNG PHÍA CS SAU KHI LỰC LƯỢNG DIỆN ĐỊA HOA KỲ RÚT KHỎI NAM VN” và nữa, “BẤT CỨ HÀNH ĐỘNG NÀO GÂY ĐE DỌA TÍNH ỔN ĐỊNH CHO HIỆP ĐỊNH SẼ NHÂN LẤY PHẢN ỨNG MẠNH MẺ THÍCH ĐÁNG “đây là tuyên bố sau này trứơc công luận từ TT Nixon khi ông quyết tâm thi hành hiệp định. Sự mập mờ chưa dứt khoát về vấn đề viện trợ kinh tế không làm lu mờ lòng hưng phấn của ông Thiệu ngày ông rời San Clemente.

Khi máy bay của ông cất cánh khỏi California, ông đã khui rượu uống mừng ghi nhớ sự hài lòng cùng khuây nguôi của ông từ cuộc nói chuyện với ông Nixon. Dù tánh ông hay nghi ngại cùng các dấu hiệu khó khăn tương lai đang tới dần–gồm thái độ do dự của chúng ta đối với sự vi phạm hiệp định của Hà nội và lưỡng lự viện trợ kinh tế cho miền Nam – thế mà lòng tin của ông không bao giờ thay đổi rằng Hoa kỳ sẽ đáp ứng viện trợ cho miền Nam trong trường hợp khẩn cấp. Đây cùng niềm tin từng được các đồng minh khác của Hoa kỳ ấp ủ xưa nay, lòng trung thành từng tạo dựng nên một trong các giá trị căn bản của Hoa kỳ chúng ta đối với thế giới thế nên chúng ta gắng làm sao đừng để nó vuột mất.

Source: Kissinger, Henry. Years of Upheaval. 1st ed. Boston: Little Brown, 1981. 309-315
* Nguồn tin trên ở link ► http://www.vietland.net/index.php