Khi Ông Tướng Chết Già
Ký Thiệt 2/2016

Bạn Đỗ Kế Giai ơi, tao là Dương Hiếu Nghĩa đây, bạn tri kỷ, Trưởng Khóa 5 của mày đây! Mình xưng hô "mày tao" với nhau đây để tưởng nhớ hồi xưa, tình bạn của chúng mình thân thiết như anh em ruột vậy.

Đứa đi Nhảy Dù, đứa đi Thiết Giáp, hai đứa mình có nhiều kỷ niệm ở khóa Hoàng Diệu Đà Lạt, trước khi bạn mang "cây dù", nhẹ nhàng hơn tui chung vô cái "nồi đồng"!  --- Tôi xin thành thật chia buồn cùng gia đình bạn Thiếu Tướng Đỗ Kế Giai, là một vị sĩ quan can đảm và anh hùng của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa! Thương chúc bạn lên Nước Trời thanh thản, đoàn tụ với chị, hạnh phúc thiên thu. - (Ký tên, Dương Hiếu Nghĩa, đại tá Thiết Giáp).

Những hàng trên đây là của ông Dương Hiếu Nghĩa đã được bà Khúc Minh Thơ đọc trước linh cữu ông Đỗ Kế Giai, theo yêu cầu của ông Dương Hiếu Nghĩa vì ở xa và lý‎ do sức khỏe không thể tới dự tang lễ ngày 27.2.2016 tại Garland, Texas.

dokegianfuneral
Linh cữu Tướng Đỗ Kế Giai, Dallas 27.2.2016

Cựu Thiếu Tướng Đỗ Kế Giai qua đời ngày 21.2.2016 tại Bệnh viện Baylor Dallas, Texas, sau bốn năm sống tại viện dưỡng lão Pleasant Valley Health Care Center.

Hai tháng trước, Ký giả Huy Phương có tới thăm Tướng Giai và viết một bài phóng sự tựa đề “Vị tướng già trong nhà dưỡng lão”, trong đó tiểu sử và thân thế của ông được ghi lại như sau:

Thiếu Tướng Ðỗ Kế Giai sinh năm 1929 tại Bến Tre, trong một gia đình điền chủ, ông theo học khóa 5 Hoàng Diệu tại trường Võ bị Liên Quân Ðà Lạt, ra trường vào tháng 4, 1952, và đơn vị đầu tiên của ông là Tiểu Ðoàn 3 Nhảy Dù, đóng tại Bắc Việt.

Lần lượt ông đã giữ các chức vụ tiểu đoàn trưởng Tiểu Ðoàn 6 Nhảy Dù, tiểu đoàn trưởng Tiểu Ðoàn 5 Nhảy Dù, chiến đoàn trưởng Chiến Ðoàn 2 Nhảy Dù (1962), tham mưu trưởng Sư Ðoàn 25 BB, tư lệnh Sư Ðoàn 10 BB (tiền thân của SÐ 18BB-1966). Năm 1967 ông mang cấp bậc chuẩn tướng. Năm 1972, ông là chỉ huy trưởng binh chủng Biệt Ðộng Quân và được vinh thăng thiếu tướng vào tháng 4, 1974.

Ngày 28 tháng 4, 1975, Tướng Times bên Tòa Ðại Sứ Hoa Kỳ ngỏ lời sẵn sàng giúp đưa cả gia đình ông đi Mỹ, nhưng ông quyết định ở lại vì trách nhiệm của một tướng lãnh. Ngày 15 tháng 5, 1975, Cộng Sản đến nhà mời ông đi họp và đưa thẳng vào khám Chí Hòa, sau đó đưa ông cùng với các vị tướng lãnh khác ra Bắc Việt.

Ðến ngày 5 tháng 5 năm 1992, sau 17 năm ông mới được trả tự do, là một trong 4 vị cấp tướng cuối cùng ra trại với Thiếu Tướng Trần Bá Di, Thiếu Tướng Lê Minh Ðảo và Chuẩn Tướng Thiếu Tướng Lê Văn Thân.

Ông và gia đình được xếp vào danh sách H.40 nhưng cuối cùng được đôn lên H.07, đến Mỹ vào tháng 11 năm 1994 và định cư tại thành phố Garland, Texas.

Theo lời kể của anh Thái Hóa Lộc, không phải là thân thích của ông, người vẫn thường ghé thăm ông, cho biết ông thích ăn các thức ăn Pháp và thích nhâm nhi chút rượu, nếu có thể. Lúc còn khỏe, ông cũng sẵn sàng nói chuyện xảy ra trong thời loạn lạc, một số chi tiết về Ðại Tướng Cao Văn Viên liên quan đến vụ đảo chánh 1963, cái chết của Thiếu Tá Nhung và một số chi tiết nhưng ông yêu cầu không nên đưa lên báo chí.

Bây giờ có chuyện nhớ chuyện quên nhưng ông cho biết vào mùa Ðông thân thể thường đau nhức, “chỉ có Whisky mới trị nổi thôi,” điều mà bác sĩ hoàn toàn cấm, nhưng đôi khi các cô y tá cũng thông cảm cho ông, khi biết ông xưa kia là một tướng lãnh.

Ông tâm sự với chúng tôi, là ông đã nghĩ đến ngày ra đi và không sợ chết. Ngày ông mất, xin nhờ bên anh em thuộc binh chủng Nhảy Dù lo chuyện hậu sự cho ông tươm tất là ông cảm thấy mãn nguyện rồi.

Ông đọc cho chúng tôi nghe một bài thơ dài ông đã làm trong nhà tù Bắc Việt sau 9 năm bị giam cầm (khoảng năm 1984.) Bài thơ dài 65 câu, lời thơ đầy bi phẫn, xót xa của một tướng lãnh thất trận và là của một người tù không bản án, vô vọng không có ngày về.

Nhà báo Huy Phương với TT Đỗ Kế Giai (12/2015)

 

Chỉ trong vòng mười lăm phút, ông đã đọc đi đọc lại cho chúng tôi nghe bài thơ này ba lần, điều này chứng tỏ ông đã đi vào thời kỳ lú lẫn. Anh Thái Hóa Lộc cho tôi biết, ông thường vào thăm ông, mang thức ăn cho ông, và lần nào, anh Lộc cũng nghe ông đọc bài thơ này. Ông cho biết trong nhà tù ông đã làm bài thơ và ghi nhớ trong đầu, đọc đi đọc lại nên thuộc nằm lòng, mà không dám viết ra giấy.

Trong khi Thiếu Tướng Ðỗ Kế Giai đọc đi đọc lại bài thơ viết trong nhà tù Việt Bắc, chúng tôi đã ghi âm lại và chép ra để các chiến hữu và độc giả hiểu được phần nào tâm sự của ông, một vị tướng già, thất trận đang sống những ngày cuối cùng xa quê hương, lẻ loi trong một nhà dưỡng lão xa lạ. Vì khuôn khổ của trang báo, chúng tôi chỉ xin trích một đoạn trong bài thơ của ông, bài thơ chưa đặt tên:

...“Ý thức hệ miền Nam kiếp nạn

Chín năm (1984) cố quốc dạ nào quên.

Không xoay thế cuộc, anh hùng lụy

Hào kiệt ngục trung, nợ nước đền.

Anh hùng mưu sự chẳng nên

Cúi xuống thẹn Ðất, ngước lên thẹn Trời.

Mài gươm rồi để hận đời

Chôn vùi thế hệ lụy người tù chung.

Oán thế nhân, xin đừng trách nữa

Lỗi lầm này hãy sửa sai chung.

Ðem xương máu học bài đắt giá

Chi đem thành bại luận anh hùng.

(ngưng trích)

Bà Khúc Minh Thơ, nguyên Chủ tịch Hội Gia Đình Tù Nhân Chính Trị VN, là một trong những người từ xa đến dự tang lễ cố Thiếu Tướng Đỗ Kế Giai đã được tổ chức quá với sự “tươm tất” như mong ước của ông do cảm tình với ông và nhân cách của ông lúc sinh thời như lời bà Thơ trong điếu văn:

“Lúc đương thời, nhất là khi còn ở trong quân ngũ, anh luôn là một cấp chỉ huy gương mẫu, nổi tiếng là một ông tướng trong sạch, nghiêm minh và thương yêu thuộc cấp, sẵn sàng giúp đỡ mọi người.”

Vì vậy khi ra đi, ông tướng đã để lại niềm thương tiếc sâu xa trong lòng các cựu quân nhân, đồng đội, bạn tù, và những người đã chia sẻ với ông những vui buồn trên đường hội nhập, làm lại cuộc đời trên quê hương mới.

Cựu Tướng Trần Bá Di, một trong bốn ông tướng cuối cùng ra khỏi trại cải tạo cùng với Tướng Giai, đã mưu sinh bằng nghề bán “cà-rem” dạo ở Florida, nay sức khỏe suy yếu nhiều, không đi Texas được, cũng đã gửi tới vài lời tiễn đưa người cựu chiến hữu và cũng là bạn tù:

“Anh Giai, mừng anh giũ sạch bụi trần, và thênh thang nhẹ nhàng theo bước SANG, THÂN về cõi An Bình.

Cần Anh ghi lại và chỉ rõ đường cho Di này sớm theo các anh nha. Ha! Ha! Ha!”

Không có gì ngậm ngùi cho bằng tiễn đưa những ông tướng chết già trên đất khách quê người, sau khi quân đội tan rã, đất nước vào tay quân thù, cúi đầu vào tù với thân phận bại tướng. Lên tới cấp tướng với những ngôi sao trên cổ áo, họ đã xông pha trận mạc, vào sinh ra tử nhiều lần, chắc họ không tiếc gì tấm thân mà không dám “chết theo thành” như các ông tướng đã tuẫn tiết vào ngày 30.4.1975. Có lẽ mỗi người đã có những lý do riêng để chọn sự sống. “Một cái sống khó khăn hơn là chết.

Và, họ đã trải qua biết bao đắng cay, khổ nhục, bi phẫn. Nếu không chết trong tù và được ra hải ngoại, nhiều người đã phải làm những công việc “thấp kém” để mưu sinh và phải “nín lặng” dù từng nắm những trọng trách trên cao, có thể họ biết nhiều sự thật lịch sử nhưng không thể nói ra, viết ra, vì nhiều l‎ý do. Đó là những sự thật quá đau đớn, quá chua cay, quá ghê gớm, quá phi lý, và quá tủi hổ?

Những sự thật ấy đã bị chôn vùi trong những câu thơ “tự thán”:

Anh hùng mưu sự chẳng nên

Cúi xuống thẹn Ðất, ngước lên thẹn Trời.

Hay cay đắng như trong di ngôn của Tướng Lê Quang Lưỡng: “Tôi làm tướng không bảo vệ được nước, khi nước mất tôi đã không dám chết theo nước, nên khi tôi chết già yêu cầu đừng phủ quốc kỳ lên quan tài tôi, vì tôi tự biết mình không xứng đáng được hưởng lễ nghi nầy.”

Đúng là một cái sống khó khăn hơn là chết. Làm tướng mà ngã xuống trên chiến trường hay “chết theo thành” sẽ được đi vào lịch sử như một anh hùng dân tộc, được mãi mãi tôn vinh trong lòng mọi người. Mai sau, có khi được đúc tượng đặt trong các công viên, tên được đặt trên các đại lộ hay đặt cho một thành phố, cho một Quân Trường. Vinh quang biết mấy!

Làm thân bại tướng sau một cuộc chiến khốc liệt, dù ở lại trong nước hay ra hải ngoại, những năm tháng còn lại chỉ là đoạn đời trong bóng tối của trăn trở, của hoài niệm, của hối tiếc, và trước sự lãng quên của mọi người, lãng quên của lịch sử, dù là một danh tướng đã lập nhiều chiến công.

Khi chết già, ngoài những người thân, còn ai nhớ tới họ?

Ký Thiệt


Bài liên quan:

- Vị tướng già trong nhà dưỡng lão 


Giai nhân tự cổ như danh tướng
Bất hứa nhân gian kiến bạc đầu

Với thời đại bây giờ, cách đánh giặc ngoài chiến trường đã khác xưa nhiều, do đó nhiều danh tướng đã chết già chứ không chết lúc chưa bạc đầu.

Cố thiếu tướng Đỗ Kiến Giai có thể gọi là một danh tướng của QLVNCH,  ông không chết ngoài chiến trường, đã sống sót sau 17 năm trong lao tù của VC, và đã may mắn được hưởng tuổi già thanh thản trên đất nước tự do dân chủ Mỹ, đã qua đời với tuổi hơn "bát tuần". Mời quí vị đọc bài viết dưới đây để biết thêm về tuổi già của tướng Giai.

Nói Chuyện Với Cựu Thiếu Tướng Đỗ Kế Giai

Tạp Chí TRẺ trong Số Tháng Tư có bài tường thuật Cuộc Nói Chuyện giữa Phóng Viên Trẻ và Cựu Thiếu Tướng Đỗ Kế Giai.

Tôi cảm khái khi đọc bài này, tôi trích đăng mời quí vị cùng đọc.

Lời nói đầu của Phóng viên Tạp Chí Trẻ:

Qua lời giới thiệu của anh Nguyễn Trọng Tuấn, một Cựu Đại Úy Thủy Quân Lục Chiến, thành viên Hội Quảng Đà Dallas-Fortworth, Texas, đã đưa chúng tôi đến thăm Cựu Thiếu Tướng Đỗ Kế Giai tại Trung Tâm Sinh Hoạt Người Việt Cao Niên Garland, Texas .

Chúng tôi đến Trung Tâm vào giờ ăn trưa của các cụ nơi đây và được bác Đỗ, Giám đốc Trung Tâm tiếp đón. Bác Đỗ nhờ người thưa với Cựu Thiếu Tường Đỗ Kế Giai là có nhà báo chúng tôi xin được gặp ông, và mời ông Tướng ra phòng khách để cho chúng tôi được gặp, bác Đỗ cho chúng tôi biết ông Đỗ Kế Giai hôm nay không được khoẻ lắm.

Rồi tôi thấy Cựu Thiếu Tướng Đỗ Kế Giai đi vào phòng khách của Trung Tâm. Hình ảnh một vị cao niên chống gậy vẫn không che được phong cách và uy nghi của một vị Tướng lãnh từng một thời oai vũ.

Chân dung và tiểu sử Cựu Thiếu Tướng Đỗ Kế Giai được ghi lại không đầy đủ như sau:

Ông xuất thân Khoá 5 Sĩ Quan Võ Bị Đà Lạt, ra trường Tháng 4/1952, ông về phục vụ Tiểu Đoàn 3 Nhảy Dù đóng ở Hà Nội. Năm 1954, ông là sĩ quan hành quân “Officier Adjoint” cho Thiếu tá Mollo ở Đồng Đế, Nha Trang, với cấp bậc Trung úy. Cấp bậc cuối cùng của ông là Thiếu Tướng Biệt Động Quân, chỉ huy Lực Lượng bảo vệ Sài Gòn cho tới khi nhận lệnh buông súng…

Những người đàn anh của tôi ở đây là những cựu Trung úy, cựu Đại úy đang làm thiện nguyện ở Trung Tâm, các anh lo bữa ăn trưa cho vài chục cụ người Việt cao niên ở đây, các cụ đang … nói chuyện, chơi cờ, xem ca nhạc Asia và chờ cơm. Thấy Thiếu Tướng đi tới các anh đến mời ông đến chiếc ghế êm ả nhất phòng. Tôi cúi chào Thiếu Tướng.

Phóng Viên Trẻ: “Thưa bác, cháu là phóng viên Tạp Chí Trẻ. Xin được chào bác, chúc bác sức khoẻ. Xin được hỏi bác đôi điều …”

Cựu Thiếu Tướng Đỗ Kế Giai: “Từ ngày xưa, tôi đánh giặc đã không thích kể chuyện đăng báo vì kể lể chiến công với báo chí tôi cho là việc tự kể cho đối phương nghe, biết chiến thuật của mình”

PV Trẻ: “Thưa bác, cháu xin không hỏi bác nhiều về những chuyện đã qua. Thay mặt Nhóm thực hiện báo Trẻ, cháu đến thăm hỏi sức khoẻ bác vì được nghe bác đã tham gia sinh hoạt tại Trung Tâm Sinh Hoạt Cao Niên Garland.”

CTTĐKGiai: “Nếu anh muốn hỏi gì thì phải đợi tôi nói xong hãy hỏi tiếp, đừng hỏi ngang làm tôi quên chuyện tôi đang nói …”

PV Trẻ: “Thưa bác, bác có viết quyển hồi ký nào không?”

CTTĐKGiai: “Tôi không viết hồi ký vì những đánh bóng cá nhân hay chạy tội trước lịch sử đều không phải là hồi ký. Theo thời gian, tôi chỉ nói ra những gì tôi thấy là cần thiết…”

PV Trẻ: “Cảm ơn bác đã trả lời. Xin hỏi bác đã đi “cải tạo” bao nhiêu năm?”

CTTĐKG: “Tôi không có đi cải tạo. Tôi đi tù.

PV Trẻ: “Xin lỗi bác, cháu chỉ muốn dùng lời nói cho nó nhẹ nhàng thôi!”

CTTĐKG: “Ngày tôi đi phỏng vấn ở Trụ Sở ODP để sang đây, có người thông dịch viên cũng hỏi tôi một câu như thế. Tôi cũng trả lời rõ ràng như thế. Và ông nhân viên Mỹ nói luôn với tôi: “Mời ông ký giấy tờ để hoàn tất thủ tục.””

PV Trẻ: “Thưa bác, thời gian … ở tù của bác bao lâu?”

CTTĐKG: “17 năm thiếu 10 ngày.”

PV Trẻ: “Xin hỏi: Có phải bác là người đi tù sớm nhất và về trễ nhất?”

CTTĐKG: “Có thể. Ngày 15 tháng 5, 1975, họ đến nhà tôi, mời tôi đi họp nhưng thật ra là bắt tôi đi luôn từ đó. Lệnh tập trung những sĩ quan Quân lực VNCH vào Tháng 6, họ bắt tôi giữa Tháng 5. Có thể tôi là người đi tù sớm nhất!”

PV Trẻ: “Nhưng khi ấy họ chưa tổ chức kịp những trại tập trung thì họ đưa bác đi giam ở đâu?”

CTTĐKG: “Khám Chí Hoà. Một năm sau họ đưa tôi từ Nhà Tù Chí Hoà đến Trung Tâm Huấn Luyện Quang Trung cũ. Bữa sau nữa, họ đưa tôi ra Bắc.”

PV Trẻ: “Bác tù ở ngoài Bắc 17 năm. Khi trở về Nam, bác thấy miền Nam sau 17 năm kiểu cộng sản “giải phóng” thế nào?”

CTTĐKG: “Tôi không thích tiếng: giải phóng”!

Bác Giai im lặng-hồi tưởng. Mọi người im lặng-chờ đợi. Ở đây chỉ có những người trẻ làm thiện nguyện là đến trung tâm sinh hoạt cao niên này để phục vụ người già. Trong thái độ, ánh mắt, giọng nói của những người lính cũ, tôi cảm nhận được sự kính trọng Tướng Giai của họ như ngày họ còn tấm thẻ bài lính chiến trên ngực. Hình như với những người lính cũ, kỷ luật quân đội vẫn sống trong họ.

Bác Giai nói tiếp: “Hôm đó trong trại tù, một người thuộc Mặt Trận Giải Phóng miền Nam nói với tôi: “… Trong Quốc ca của các anh có câu: Này công dân ơi! Quốc gia đến ngày giải phóng…, thì hôm nay chúng tôi đã giải phóng cho các anh rồi! Còn thắc mắc gì nữa!” Tôi nghe anh ta nói câu đó thì tức đến chết được, để rồi tôi nói cho các anh nghe về lịch sử bài quốc ca của Quốc Gia VNCH …”

Cuộc nói chuyện ngưng vì bác Đỗ đến mời vị Cựu Tướng đi ăn cơm, anh Tuấn và tôi được mời cùng ăn với vị Cựu Tướng. Bác Giai chống gậy, đi đứng đã có phần khó khăn, nhưng vẫn đi được một mình. Nhìn bác tự lo cho mình bữa ăn, tôi không biết ngày xưa, cấp Tướng thì có bao nhiêu người phục vụ? Tôi thấy ở ông phong cách tự tại, bình thản của một cụ già người Việt trong Trung Tâm Sinh Hoạt Cao Niên. Một chút ngậm ngùi nổi lên trong lòng tôi dù tôi thấy là vô lý. Bác Giai rất an nhiên, tự tại.

Tôi nói với bác Giai: “Hôm qua, cháu nói điện thoại với cô Kiều Mỹ Duyên. Cô gởi lời thăm bác.”

Ông ngồi yên như hồi tưởng lại những người quen biết cũ.

Thấy ông có vẻ xúc động, tôi hỏi thêm câu nữa: “Ngày xưa, chắc cô Kiều Mỹ Duyên đẹp lắm hả bác?”

Ông cười, nụ cười bí hiểm với ánh mắt trầm mặc sau làn kính cận dày. Nhưng sau đó … ông tỏ ra bớt “quạu”, chắc tâm tư sảng khoái nên ông ăn cơm thấy ngon.

Tôi hỏi: “Cơm ngon không bác? Cháu thấy món thịt kho rất ngon.”

Ông trả lời nhẹ nhàng: “Ngon hơn cơm tù”.

Trên chiếc bàn trải khăn trắng muốt, đơn sơ, mỗi người một đĩa cơm có thịt kho, cải xào, chén canh đậu hũ trắng nấu với cà chua và thịt bằm. Trước mặt có ly trà, trái chuối để tráng miệng. Một phần ăn trưa rất bình thường ở Mỹ, bình thường đến nỗi người ăn chỉ làm công việc ăn chứ ít ai nghĩ đến ân sủng của Ơn Trên đã ban cho lương thực hàng ngày hay công lao người nấu bữa ăn, hoặc tiền chợ có từ đâu? Nhưng nghe bác Giai vừa ăn vừa nói chuyện, mọi người như mới nhận thức ra giá trị của bữa ăn hàng ngày, bác nói:

Từ ngày tôi ra tù đến nay, không bao giờ tôi bình phẩm về món ăn”.

Là một phóng viên chuyên thực hiện những cuộc phỏng vấn, nhưng lần này có lẽ là lần thứ nhất tôi không muốn đóng vai trò phóng viên đặt câu hỏi mà chỉ muốn ngồi nghe câu chuyện của một chứng nhân lịch sử, một trong những “Tự điển sống” hiếm hoi còn lại tới bây giờ. Những câu hỏi về lịch sử không phù hợp với không gian, thời gian. Từng câu hỏi như những mũi kim chích vào ung nhọt quá khứ, nó có cái “đã” của một vết thương mưng mủ được tuôn ra, nhưng tiếp theo sau là nỗi buồn vết sẹo không lành sau mỗi câu trả lời của vị Cựu Tướng. Tôi tự thấy mình có lỗi trong những câu hỏi có thể gợi sự bất an, hay không vui trong lòng vị Cựu Tướng nên tôi chuyển sang chuyện khác, may ra cuộc trò chuyện được vui vẻ hơn.

PV Trẻ: “Thưa bác, hiện nay bác đến Trung Tâm này sinh hoạt hàng ngày hay sao?”

CTTĐKG: “Không, một tuần tôi đến đây ba ngày thôi.”

PV Trẻ: “Vậy, những ngày ở nhà thì bác làm gì? Bác đang sống với ai?”

CTTĐKG: “Tôi sống với hai người con trai của tôi, hai con tôi qua đây đã lỡ tuổi, dở dang mọi chuyện nên chúng không lập gia đình. Công việc hàng ngày thì tôi làm được gì thì làm, được tới đâu hay tới đó.”

PV Trẻ: “Bác có thường xuyên liên lạc với bạn hữu và các vị tướng lãnh xưa không ạ?”

CTTĐKG: “Ít khi. Từ hôm ra tù đã thế. Ngày ra tù, họ cho hay trong nửa ngày phải thu xếp rời trại. Tưởng chuyển trại thôi vì tôi tin là tôi sẽ ở tù tới chết. Không ngờ họ cho về. Tôi với Thiếu tướng Trần Bá Di, Thiếu tướng Lê Văn Thân, Thiếu tướng Lê Minh Đảo là 4 người trong 100 người mà họ muốn giam tù cho tới chết. Nhưng nhờ sự đấu tranh của các chiến hữu, các vị đồng hương ở hải ngoại, tạo thành áp lực buộc họ phải thả chúng tôi. Bốn người chúng tôi là đợt cuối cùng trong 8 đợt thả 100 người tù cuối sổ. Lúc đợi xe đưa về Sài Gòn bốn chúng tôi tính với nhau: tôi sẽ được đưa về nhà trước vì là người lớn tuổi nhất trong anh em, kế đến là Trần Bá Di, tới Lê Văn Thân. Lê Minh Đảo trẻ tuổi nhất, sẽ về sau chót. Nhưng khi xe đưa chúng tôi về đến Sài Gòn thì những người áp giải chúng tôi làm ngược lại! Lê Minh Đảo được đưa về nhà trước nhất, tôi là người về nhà sau cùng.”

PV Trẻ: “Vậy, bác đúng là người đi tù trước nhất và về nhà sau cùng. Bác có không được vui về chuyện ấy không?”

CTTĐKG: “Từ những ngày cuối cùng của Tháng Tư, 1975, sau khi Tổng thống Thiệu và Thủ tướng Khiêm đã rời Sài Gòn thì ngày 28, 29 Tháng Tư, tướng Times bên Toà Đại Sứ Hoa Kỳ ngỏ lời sẵn sàng giúp tôi đưa cả gia đình tôi đi ra nước ngoài. Nhưng tôi quyết định ở lại vì trách nhiệm.”

PV Trẻ: “Bác có ân hận về quyết định ở lại đó với 17 năm tù và về sau chót?”

CTTĐKG: “Không. Tôi đã làm tròn trách nhiệm của một Tướng lãnh với Tổ Quốc, với Quân đội, với đồng bào và đồng đội. Qua 17 năm tù tôi vẫn giữ tác phong, danh dự của Quân Lực VNCH. Những người bắt tôi còn đó, họ có thể không thích tôi nhưng họ không có gì để khinh tôi.

PV Trẻ: “Đối với bên kia, thì đã rõ về tác phong của bác. Nhưng đối với đồng đội, đặc biệt là với các vị Tướng đã bỏ nước ra đi vào những phút chót dầu sôi lửa bỏng, Bác nghĩ gì về họ?”

CTTĐKG: “Tôi quyết định ở lại vì tôi thấy hành động như vậy là đúng. Nhưng không phải vì vậy mà tôi công kích những người ra đi Tháng Tư năm 1975. Bởi vì trường hợp mất Nam Việt Nam thật đặc biệt, không thể quy trách cho những người cầm súng giữ nước. Các đơn vị quân đội vẫn hiên ngang chiến đấu, chúng ta không hề bỏ chạy trước cộng quân. Quân đội phải buông súng vì lệnh đầu hàng của ông Dương Văn Minh. Do đó, nếu quý vị Tướng có ở lại trong nước thì trước sau các ông cũng vô tù như tôi. Hơn nữa nhờ có một số chiến hữu thoát được ra hải ngoại nên về mặt chính trị mới có cơ hội tranh đấu cứu vãn những người còn kẹt lại. Về mặt kinh tế, những người đi trước đa số đã thành công trong việc xây dựng được cuộc sống ổn định ở nước ngoài, nhờ đó ta có thể có thể tương trợ lẫn nhau. Bây giờ không nên nói nhiều nữa về chuyện đi hay không đi, đi trước - đi sau, mà mọi người nên, và phải cùng chung lưng xây dựng một lực lượng vững mạnh cả chính trị và kinh tế nơi thế hệ tương lai của người Việt tại hải ngoại.”

PV Trẻ: “Cảm ơn bác đã cho nghe về lịch sử và những biến động ở Sài Gòn cũng như miền Nam vào những ngày cuối cùng của nền Cộng Hoà. Trong tương lai, bác có suy tư nào để chia sẻ với những người đời sau?”

CTTĐKG: “Những ngày lễ, ngày Tết, đặc biệt là Ngày 30 Tháng Tư hàng năm, đều có những người trẻ tìm đến tôi để hỏi thăm. Tôi cảm ơn nhiều. Phần các cháu hỏi, thì câu trả lời của tôi còn đó, đến năm sau có thể ta sẽ lại gặp nhau. Các cháu hãy làm đi, làm những gì có thể làm cho quốc gia, dân tộc chúng ta khá hơn, hay hơn.”

PV Trẻ: “Cảm ơn lời chỉ dạy của bác. Xin được chào bác và để bác nghỉ. Xin chúc bác được nhiều sức khoẻ để làm chỗ dựa tinh thần cho lớp trẻ dấn thân vào việc xây dựng tương lai chung của chúng ta. Kính chào bác.”

Khi ngồi nghe chuyện Cựu Tướng Đỗ Kế Giai sau bữa ăn trưa ở Trung Tâm Sinh Hoạt Người Việt cao niên, những câu hỏi tôi đã chuẩn bị để hỏi ông không có cơ hội được tôi nói ra vì dòng hồi tưởng của vị Tướng Già cứ tuôn chảy theo ký ức và tâm cảm của ông. Hai nữa có những chuyện tôi không muốn hỏi sợ làm ông buồn.

Thế rồi bác Đỗ lái xe đưa bác Giai về tư gia. Trongcuộc sống âm thầm nơi viễn xứ, những người lính cũ vẫn sống bên nhau với tình đồng đội ngày nào. Thật đáng kính phục những người Lính Chiến của một Quân Lực oai hùng nay không còn nữa.

Tôi trở về toà soạn, ngồi gõ keyboard viết những dòng chữ này để Tưởng Niệm Tháng Tư gửi đến quí vị độc giả.

Tạp Chí Trẻ.