THƯƠNG ĐAU THỜI QUYẾT TỬ!
Việt Nam, điạ ngục đau thương
Núi, sông, biển, đất: phô trương toàn Tàu
Đảng đâu? Quân đội chốn nào?
Hỏi nhau trong tiếng thét gào thương đau.
Chân cùm, tay xích gọi nhau
Bao người yêu nước nguyện cầu gì đây?
Thanh niên Nam, Bắc, Đông, Tây
Mau mau vùng dậy! Nhục này rửa mau!
Ý Nga, 12-8-2013.
DỰ ÁN CHẤM MÚT.
Đập di tích cổ mà xây
Bao nhiêu di sản nhám tay bấy tiền
Xây liền liền! Đập liên miên
Đảng càng vẽ chuyện, tổ tiên càng phiền!
Ý Nga, 31-7-2013.
GIỮA MỘT RỪNG…LUẬT LÀ MỘT LUẬT…RỪNG.
Điều không hay. Lẽ không phải!
Sai lại sửa. Sửa vẫn sai!
Đảng này lảnh đạo được ai?
Chỉ hoài công dân bày biện!
Tâm không bình, trí không tỉnh!
Đảng này nửa tỉnh, nửa điên
Tỉnh rụi khi ăn cướp tiền
Khùng điên khen giặc thẳng tiến!
Ý Nga, 13-10-2013.
VÌ…DÂN, DO…DÂN.
“Bộ Phận Phòng Dân” phòng…dân, không phòng địch.
Dân nhúc nhích là “Bộ” không thích, phòng ngay!
Dân rục rịch là đảng xiềng đêm, xích ngày!
Dân đối nghịch? “Bộ” đọa đày cho bằng thích!
Ý Nga, 13-10-2013.
HÁN HAY VIỆT?
Không thấy! Không nghe! Không biết!
Điếc từ trong đảng điếc ra!
Mù lòa đặc biệt: Đảng… tà!
Dân Việt chắc là chết thiệt!
“Học tập tốt!
Kiểm điểm tốt!”
Tốt từ “Người Lạ” tốt… vào!
Ý Nga-Thế Vinh, 13-10-2013.
NGỤC VIỆT NAM.
Cai tù, cai ngục thông đồng
Ăn trên, chận dưới rối bòng bong dân
Bao người khóc hận bao lần
Ai đầy tớ, ai chủ nhân, hỡi Trời?
Ý Nga, 12-8-2013.
NGON, KHÔNG… LÀNH!
Trông ngon nhưng lại không lành
Món nào cũng độc rành rành rõ ra
Người… Tàu đi giết người… ta
Mốt mai chết hết rõ ra Cộng Tàu.
Ý Nga, 9-10-2013.
TÂM KHÔNG LƯƠNG NÀO CÓ LƯƠNG TÂM!
Thương dân mình sao mà khổ!
Phẫn nộ phơi hoài chẳng khô*
Dưới sự cai trị điên rồ
Cờ đỏ nhuộm máu mê lộ.
Dân bị chà đạp nhân phẩm
Thế hệ tương lai sai lầm:
Vùi thân ăn chơi, rối rắm
Vực thẳm chẳng còn xa xăm.
Đất nước ngày càng lâm nguy
Đảng, Đoàn “Yêu Nước” thấy chi
Trong vơ vét của, thống trị
Dìm dân vào vực ngu si?
Dân khổ lắm rồi biết chưa?
Đừng làm khổ dân thêm nữa!
Ý Nga, 13-10-2013.
*Chỉ toàn là nước mắt!
ANH HÙNG YÊN BÁI.
Thương bao thủ cấp vì đời
Đã rơi long lóc cho người noi gương
Việt Nam, càng nhớ càng thương
Hỏi: Người Xưa, máu nhuộm đường vì ai?
Hỏi người nay: đoạn đầu đài
Thực dân, giặc Hán: ai thay? Đầu nào?
Ý Nga, 12-8-2013.
CHÓNG MẶT.
Đỏ lòe, đỏ loẹt Tay Sai
Khiến dân xây xẩm mặt mày
Đầy những “tham quan, ô lại”
Chỉ lo vơ vét miệt mài?
Ý Nga, 13-10-2013.
CÁN BỘ HÀNH HƯƠNG THƯƠNG MẠI.
Lâm râm cầu nguyện gì?
Thì thầm ước ao chi?
Hứa hẹn gì lí nhí?
Lằng nhằng gọi …âm ty?
Kêu khổ nghe rầm rộ
Sung sướng vướng “Tam Vô”?
Chúa, Phật thôi báng bổ?
Đỏ hồng hồng : “Nam mô…”.
Ý Nga, 12-10-2013.
XIN MỜI BẠN LY CÀ PHÊ CHỐNG CỘNG
Kính tặng Tuổi Trẻ VN Yêu Nước.
Xin mời Bạn ly cà phê buổi tối
Uống cùng tôi, mình chia sẻ thầm thì
Đã làm gì cho công lý? Ích chi:
Chẳng lập chí tuổi xuân thì PHÙ ĐỔNG?
Nấu bằng nước HÁT GIANG: trong, uy dũng,
Cà phê rang với LỜI HỊCH DƯỚI CỜ,
Rồi đem xay cùng những CHIẾN ĐẤU THƠ,
Đun từ Lửa Đấu Tranh TRẦN BÌNH TRỌNG.
Xin mời Bạn ly cà phê chống Cộng
Bên lửa hồng, lời bất dũng quyết KHÔNG!
Trước gia vong KHÔNG tuyệt vọng nãn lòng
Cộng Tàu, Việt? Cộng nào ta cũng chống!
Vì dân tộc, Non Sông: chọn đường sống
Phải tâm đồng mà hành động Chị, Anh
Tuổi thanh niên liều lĩnh, chết cũng đành.
Có bản lãnh thực hành, đừng tránh né!
Xin mời Bạn ly cà phê tuổi trẻ
Pha vụng về, xin huynh, muội đừng chê
Cà phê Ý, đắng như mật Đất Quê
Không đường, sữa nhưng thơm lừng hương vị.
Khắp thế giới ta đi, tìm tri kỷ
Làm gì đây trước “ma quỷ” hồng kỳ,
Để cứu nguy, hỡi chí sĩ, nam nhi?
Cùng suy nghĩ, hỡi nữ nhi CHÍNH TRỰC!
Xin mời Bạn chia cùng dân tủi nhục
Hãy cùng tôi thao thức trọn đêm này
Ừ! Đêm nay, mình lấy đêm làm ngày
Từ Móng Cái, Phú Bài, Vinh, Yên Bái…
Từng bươn chải: Huế, Sài Gòn… không ngại:
Từ Đồng Nai, Quảng Ngãi, Huế, Lào Cai…
Cùng Gia Lai, Đại Ngãi tới Đồng Xoài…
Từng khẳng khái chờ ngày sang trang sử.
Xin mời Bạn nhâm nhi từng ngụm, thử
Có đắng như TRANG SỬ NHỤC THÁNG TƯ?
Có mặn như bao dòng lệ chảy dư?
Nhòa huyết sử một Việt Nam cam chịu.
Tôi mời Bạn hương tuyệt thơm: HOÀNG DIỆU,
BÙI THỊ XUÂN, NGUYỄN TRÃI, NGUYỄN TRI PHƯƠNG,
NGUYỄN PHI KHANH, LÊ LỢI, HỊCH CẦN VƯƠNG,
LÝ THƯỜNG KIỆT, DẠ TRẠCH VƯƠNG*, TRƯNG, TRIỆU
Mời Bạn uống cùng tôi, dù bận bịu
Ta phải LIỀU mới cứu nỗi Quê Cha,
Ta phải LIỀU cho bao triệu dân ta,
“Máu phải đổ, HOA TỰ DO mới nở”*
TRẦN QUỐC TOẢN với trái cam phẫn nộ
Còn bồng con: PHÙNG THỊ CHÍNH* cam go,
Tay cầm gươm đôn đốc lính, dặn dò
Ôi nhi nữ! Khí phách LIỀU ngời sáng!
HOÀNG HOA THÁM, AN DƯƠNG VƯƠNG, CAO THẮNG,
TÔ HIẾN THÀNH, ĐINH CÔNG TRÁNG, HUYỀN TRÂN,
ĐẶNG DUNG, ĐINH BỘ LĨNH, TỐNG DUY TÂN,
TRẦN HƯNG ĐẠO, LÊ LAI, TRẦN NHẬT DUẬT,
Thấm lòng đất, máu anh hùng bất khuất
Công mở mang, giữ đất, quý vô ngần!
Cùng nằm gai, nếm mật, gương tiền nhân
Không khuất tất, tri và hành hiệp nhất!
LÊ QUANG DIỆU, LÊ CHÂN, NGUYỄN THIỆN THUẬT,
PHAN ĐÌNH PHÙNG, NGUYỄN HUỆ, rồi PHẠM BÀNH,
NGUYỄN HOÀNG, LÊ VĂN DUYỆT, LÊ ĐẠI HÀNH,
NGUYỄN TRUNG TRỰC, YẾT KIÊU, PHẠM NGŨ LÃO…
Bao xương máu, gương anh hào dạy bảo
Cớ làm sao giặc vênh váo tràn vào?
Cớ làm sao dân nuốt hận nghẹn ngào,
Đảng lếu láo góp thêm vào tàn bạo?
Tôi mời Bạn, chúng ta cùng đàm đạo
Phải làm sao vùng dậy? Phải thế nào?
Biết cà phê quá đắng, chẳng ngọt ngào
Nhưng cường bạo phải thay bằng CHÍNH ĐẠO?
Đêm tỉnh táo mình bàn nhau: xông xáo
Nào binh thư, nào chiến lược thấp cao
Nào gian lao khởi nghĩa, bao phong trào
Xin mời Bạn vung giùm THANH GƯƠM BÁU!
Ý Nga và Thế Vinh, 17-9-2013.
*Lời của NGUYỄN THÁI HỌC.
*TRIỆU QUANG PHỤC còn được xưng là DẠ TRẠCH VƯƠNG (VUA ĐẦM LẦY > Đầm Dạ Trạch có nhiều rắn, yếu tố chính gây trở ngại cho các cuộc tấn công của giặc).
*PHÙNG THỊ CHÍNH là 1 nữ tướng thời Hai Bà Trưng. Tương truyền bà vừa sanh xong đã dẫn quân đánh giặc, 1 tay bồng con, 1 tay cầm kiếm đôn đốc quân sĩ tiến lên.
Theo wikipidea: http://vi.wikipedia.org/wiki/Gia_Long
*Ông tên thật là Nguyễn Phúc Ánh (阮福暎 hoặc 阮福映; thường được gọi tắt là Nguyễn Ánh), trị vì từ năm 1802đến khi qua đời năm 1820.Triều đạicủa ông được đánh dấu bằng việc chính thức sử dụng quốc hiệu Việt Nam với cương thổ rộng lớn nhất cho đến thời đó, kéo dài từ biên giới với Trung Quốctới vịnh Thái Lan, gồm cả quần đảo Hoàng Savà Trường Sa[1]; thay thế các cải cách có xu hướng tự do của triều Tây Sơn bằng nền giáo dục và điều hành xã hội theo Nho giáokhắc nghiệt hơn; định đô tại Phú Xuân. Ngoài ra, ông còn là người mở đường cho các ảnh hưởng của người Pháp ở Việt Nam qua việc mời họ giúp xây dựng các thành trì lớn, huấn luyện quân đội và khoan thứ cho việc truyền đạo Công giáo. Dưới triều đại của ông, Việt Nam trở thành một thế lực quân sự hùng mạnh ở Đông Dương, cùng Xiêm La phân chia ảnh hưởng đối với Chân Lạp.
*Trần Quang Diệu (chữ Hán: 陳光耀; 1760[1]– 1802) là một trong Tây Sơn thất hổ của nhà Tây Sơntrong lịch sử Việt Nam. Ông cùng với vợ là nữ tướng Bùi Thị Xuânđã cố sức chiến đấu để bảo vệ vương triều.