- Details
- Category: Thư Viện
Võ Ngọc Uyển
Nói về quê hương Bình định, người ta thường nghĩ ngay đến các anh hùng liệt sĩ đã làm vang danh rạng rỡ trong lịch sử Việt nam: Quang Trung Nguyễn Huệ, Trần Quang Diệu, Võ Văn Dũng, Bùi thị Xuân, Ngô tùng Châu, Mai Xuân Thưởng, Tăng Bạt Hổ v.v... Nơi đó cũng là cái nôi của Võ thuật miền Trung được diễn tả đấy đủ trong câu ca dao:
- Details
- Category: Thư Viện
Hát tuồng hay hát bội |
|
Phan Phụng |
|
![]() |
Vấn đề này đã làm hao tốn bao nhiêu giấy mực và thời gian của các nhà nghiên cứu về loại hình sâu khấu cổ truyền này. |

- Details
- Category: Thư Viện
Đừng vội khẳng-định gió Đông tốt hay gió Tây tốt! Chuyện gió Đông đè bẹp gió Tây hay ngược lại, không cần-thiết đối với sự phát-triển của quê-hương và cuộc-sống của dân-tộc ta!!! Điều chúng ta cần, là ngọn gió mát không độc! Ngọn gió đó giúp cho quê-hương chúng ta vươn lên và mang cho toàn- dân ta tự-do, ấm-no và hạnh-phúc để cho cuộc sống có ý-nghĩa với kiếp người và quyền làm người trọn vẹn!!!

- Details
- Parent Category: Thư Viện
- Category: Thuộc về lịch sử
Tài liệu “CIA and The Generals”
Bình luận gia Trần Bình Nam nguyên là Trung tá Hải quân VNCH. Những bài bình luận chiến lược của ông về chiến tranh Việt Nam luôn luôn được đánh giá là “số 1” của thế giới. Sau đây là lời giới thiệu của ông về tài liệu “CIA and The Generals”:

- Details
- Parent Category: Thư Viện
- Category: Thuộc về lịch sử
Võ Thi Linh
Cách nay đúng 227 năm,trong đêm mùng 4 rạng mồng 5 tháng giêng năm Kỷ Dậu 1789, tức [30-31 lịch Việt hay 28-29/1/1789 lịch nhà Thanh], quân Tây Sơn tổng tấn công quân Thanh ở Thăng Long.

- Details
- Parent Category: Thư Viện
- Category: Thuộc về lịch sử
Đào Tiến Thi, Bài đăng lần đầu lúc 11:59, ngày 27.1.2012
Bất cứ ai, chỉ cần qua ghế nhà trường cấp 2, cũng đều biết chi tiết trưa ngày mùng năm Tết Kỷ Dậu (1789), Quang Trung cưỡi voi, áo bào xạm đen khói súng, tiến vào Thăng Long, kết thúc cuộc đại phá 29 vạn quân Thanh chỉ có 5 ngày, sớm hơn 2 ngày so với dự định (lúc khao quân ở Nghệ An ngày 30 Tết, Quang Trung hẹn ngày mùng 7 Tết vào Thăng Long mở tiệc ăn mừng).
Nhưng có lẽ ít ai biết về số phận của ông vua phản bội Tổ quốc Lê Chiêu Thống và đoàn tòng vong của ông ta sau cuộc thua tan tác này. Chúng tôi xin lược qua 15 năm sống (và chết) nhục nhã (và phần nào đáng thương) trên đất Trung Quốc của họ.
Lê Chiêu Thống tới bản doanh quân Thanh. Nguồn: Wikipedia/Lê Chiêu Thống
Bài viết dưới đây tổng hợp từ Hoàng Lê nhất thống chí [i] (HLNTC), Bắc hành tùng ký (BHTK), có tham khảo thêm các giáo trình lịch sử Việt nam và từ điển mở Wikipedia. Trong số này đặc biệt chú ý là Bắc hành tùng ký, bởi nó là cuốn nhật ký của Lê Quýnh, nhân vật quan trọng nhất trong đoàn tùy tùng của Lê Chiêu Thống, ghi lại những ngày ông bị giam cầm trên đất Trung Quốc.
Cầu cứu nhà Thanh
Với khẩu hiệu phù Lê diệt Trịnh, sau khi lật đổ họ Trịnh, anh em Tây Sơn giao lại Bắc Hà cho vua Lê (1786), rồi rút quân về Nam. Vua Lê lúc ban đầu là Lê Hiển Tông, sau khi qua đời, Lê Duy Khiêm (Lê Duy Kỳ) được kế vị, hiệu là Chiêu Thống, năm ấy 21 tuổi.
Nhưng Chiêu Thống không đủ uy tín và tài năng để cai quản đất nước. Bắc Hà rơi vào loạn lạc, Lê Chiêu Thống phải hết dựa vào thế lực này đến thế lực khác, từ Đinh Tích Nhưỡng đến Nguyễn Hữu Chỉnh. Khi Chỉnh bị Võ Văn Nhậm diệt, Lê Chiêu Thống bỏ chạy sang Quảng Tây, Trung Quốc, cầu cứu nhà Thanh.
Nhân cơ hội ấy, quân Thanh do Tổng đốc Lưỡng Quảng là Tôn Sỹ Nghị cầm đầu kéo sang. Ngay khi vào Thăng Long, chúng đã chẳng coi Lê Chiêu Thống ra gì. Vua ta phải hằng ngày vào chầu chực ở bản doanh của Tôn Sỹ Nghị để nghe lời sai bảo. Tuy vua Lê đã được phong Vương, nhưng giấy tờ đưa đi các nơi, đều dùng niên hiệu Càn Long. “Ngày ngày sau buổi chầu, vua lại tới chờ ở doanh của Nghị để nghe truyền việc quân, việc nước. Vua cưỡi ngựa đi trước, Lê Quýnh cưỡi ngựa đi sau, quân lính hộ vệ chỉ vài chục người. Người trong kinh có kẻ không biết là vua. Hoặc có người biết, thì họ nói riêng với nhau rằng:
"Nước Nam ta từ khi có đế, có vương tới nay, chưa thấy bao giờ có ông vua luồn cúi đê hèn như thế. Tiếng là làm vua, nhưng niên hiệu thì viết là Càn Long, việc gì cũng do viên tổng đốc, có khác gì phụ thuộc vào Trung Quốc?". Lại có hôm, vua tới yết kiến, Nghị không buồn tiếp, chỉ cho người đứng ở dưới linh các truyền bảo: "Hôm nay không có việc quân, việc nước gì. Hãy về cung yên nghỉ!" (HLNTC). Đối với quân lính và bọn người Hoa ở Việt Nam, thì y lại dung túng cho chúng mặc sức làm điều phi pháp. Vua Lê tuy biết sự tệ hại ấy, nhưng đã trót mời quân Thanh sang, chỉ sợ vì việc đó mà làm mếch lòng chúng, nên không dám nói gì.
Chạy theo tàn quân Thanh
Sau khi quân Thanh đại bại, Lê Chiêu Thống cùng gia quyến và các bề tôi trung thành lại chạy theo sang Trung Quốc, hy vọng cầu viện nhà Thanh một lần nữa.
Nhưng lúc này, tình hình đã khác. Quân Thanh, mà thực chất là quân 4 tỉnh gần Việt Nam (Quảng Đông, Quảng Tây, Vân Nam, Quý Châu), sau những trận Ngọc Hồi, Khương Thượng, Đống Đa,… đã trở nên khiếp sợ vua Quang Trung và quân Tây Sơn. Theo Hoàng Lê nhất thống chí, khi quân ta đuổi chúng đến Lạng Sơn, đã nói phao lên rằng: “Sẽ giết hết rợ Hung Nô”. Do đó, ở đất Trung Quốc, “dân chúng lại càng nhốn nháo. Từ cửa ải Nam Quan trở về bắc, trai gái già trẻ, bồng bế dắt díu nhau chạy trốn, suốt vài trăm dặm, lặng ngắt không còn bóng người” (HLNTC). Tôn Sỹ Nghị bị cách chức, vua Càn Long cử Phúc Khang An là một người thuộc đội “cờ viền vàng”, được vua rất tin dùng, làm tổng đốc Lưỡng Quảng, thay mặt triều đình lo việc kinh lý với An Nam. Ở triều đình thì việc này giao cho Hòa Khôn (tức Hòa Thân, viên quan nổi tiếng tham nhũng nhưng lại được vua Càn Long tin dùng) trực tiếp phụ trách. Cả hai tên này đều không thích gì việc đánh Việt Nam.
Mặt khác, sau đại thắng, Quang Trung tìm cách hòa hiếu. Ông sai Ngô Thì Nhậm thảo thư gửi Phúc Khang An, nói rõ ta không có ý đánh nhau mà thực ra lỗi thuộc về Tôn Sỹ Nghị. An bày cho ta đưa vàng bạc đút lót cho Hoà Khôn. Khôn liền tâu với vua Thanh xin bãi việc binh, phong vương cho Quang Trung. Khôn nói: "Từ xưa đến nay, chưa có đời nào làm nên công trạng ở cõi Nam. Nhà Tống rồi nhà Nguyên, nhà Minh, rốt cuộc đều bị thua trận, gương ấy hãy còn rành rành". (HLNTC)
Ngô Thì Nhậm cho Nguyễn Quang Thực, cháu gọi Nguyễn Huệ bằng cậu, giả làm Quang Trung, sang yết kiến vua Thanh, dâng thêm hai thớt voi đực. Dọc đường, người Thanh phải phục dịch chuyển vận rất khó nhọc. Trong ngoài ai cũng biết là giả dối, mà không ai dám nói.
Đến Yên Kinh, “vua” Quang Trung (giả) được đón tiếp rất chu đáo (Càn Long không biết hay biết nhưng cố tình lờ đi?), được phong vương. Và như vậy số phận Lê Chiêu Thống đã sắp được định đoạt mà y không biết.
Bị ép gọt đầu gióc tóc
Trong khi ấy, Phúc Khang An giả vờ bảo Lê Chiêu Thống:
“Ngày xuất quân không còn xa, vương nên tự mình đem tả hữu liêu thuộc làm quân dẫn đường đi trước. Nhưng bây giờ nên gọt đầu gióc tóc, thay đổi quần áo giống như người Trung Quốc, để khi về Nam quân giặc không thể phân biệt được, thì công lớn mới có thể thành. Sau khi khôi phục nước nhà, bấy giờ sẽ lại theo như tục cũ. "Việc binh không ngại dùng cách xảo trá". Vương nên nghĩ tới chỗ đó.
Lê Chiêu Thống tưởng thật, vâng lệnh ngay, lại còn nói:
“Chúng tôi không giữ được nước nhà, may nhờ thiên triều cứu viện, dù cả nước phải ăn mặc như người Trung Quốc, cũng xin vâng lệnh. Việc ấy còn có tiếc gì?” (HLNTC)
Thế là Khang An bèn làm một tờ biểu kín tâu với vua Thanh, nói rằng vua An Nam không còn có ý xin cứu viện nữa, vua tôi đều đã gióc tóc đổi đồ mặc, xin ở lại yên ổn trong đất Trung Quốc. Vậy xin bãi bỏ các đạo quân định đưa sang đánh dẹp phương Nam.
Lừa được Chiêu Thống rồi, Khang An còn chơi trò làm nhục ông vua lưu vong bằng cách bố trí cho Chiêu Thống chạm trán phái đoàn sứ bộ của Quang Trung, làm cho Chiêu Thống rất tức tối.
Sau đó Khang An lại tìm cách ly gián Lê Chiêu Thống với các bề tôi còn chút tinh thần dân tộc. Trong số bề tôi này, đáng chú ý nhất là Lê Quýnh.
Nguyên Quýnh đã từng theo Lê Chiêu Thống sang cầu cứu nhà Thanh năm 1788. Lúc quân Thanh kéo vào nước ta, Quýnh được dịp thả sức say mê tửu sắc, “ân oán riêng dù bằng cái tơ, sợi tóc cũng đều đền báo không hề sót” (HLNTC).
Khi vua chạy theo tàn quân Tôn Sỹ Nghị, Quýnh được giao ở lại để chiêu mộ lực lượng trong nước.
Tháng 5-1789, Khang An cho trát đòi bọn Quýnh sang “bàn việc nước”. An cho giải Quýnh loanh quanh, mãi tháng 9 mới cho gặp, nhưng rồi “việc nước” chỉ là ép Quýnh gọt đầu gióc tóc và đổi đồ mặc như người Thanh mà thôi. Quýnh cùng hiệp trấn Nguyễn Mậu Nễ, tri phủ Nguyễn Đồng, Trịnh Hiến, chỉ huy Lê (Doãn) Trị, hàn lâm viện cung phụng Lý Bỉnh Đạo, cả bọn thà chết chứ không chịu gọt đầu gióc tóc.
Quýnh và nhiều đồng chí của mình bị đi đày. Trong số này, Nguyễn Đồng bị bệnh chết ở châu Nam Ninh, Nguyễn Mẫu Nễ chết ở Liễu Châu.
Cuối cùng, Khang An cũng nói trắng với bọn Quýnh là thiên triều đã phong vương cho Quang Trung rồi, nay chẳng những nhà Thanh không kéo quân sang giúp nhà Lê mà bọn Quýnh cũng không thể nào về nước được nữa. Tốt nhất là ở lại Trung Quốc, An sẽ xin vua Thanh bổ dụng.
Nhưng Quýnh chối từ: “Lưu lại nội địa, không phải sở nguyện của chúng tôi. Vì lưu lại đây, thì bỏ việc nước không hỏi đến, ấy là bất trung. Bỏ cha mẹ không đoái đến, ấy là bất hiếu. Phụ những kẻ đồng tâm chết với nước, ấy là bất nghĩa. Lỡ lòng mong cứu khỏi đắm, chữa khỏi cháy, ấy là bất nhân. Vì nước mà đổi thành bán nước, ấy là bất trị. Liều mình mà trái lại giấu mình, ấy là bất dũng, mang đủ sáu điều đó, sao xứng được làm người? Trung Hoa tuy rộng, cũng không đất dung những đồ chó lợn ấy” (BHTK).
Quýnh bị đày đi Quảng Đông (có sách nói là Sơn Đông). Tháng 3-1790, nhân xa giá vua Thanh đi Đông tuần, Quýnh được gặp Càn Long. Càn Long bảo: “Chúng bay không vì sự thịnh suy mà tiến thoái, khá khen lòng thành giữ trung nghĩa. Trẫm không nỡ khép tội". Nhưng lại vẫn ép: “Chủ các ngươi đã xin yên ổn ở lại Trung Quốc, lũ các ngươi giốc lòng cùng theo, thì nên lập tức gọt đầu gióc tóc, đổi đồ mặc để chờ mệnh lệnh” (BHTK).
Nhà Thanh đưa Quýnh lên Yên Kinh. Tại đây chúng vẫn tiếp tục ép Quýnh gọt đầu gióc tóc. Quýnh vẫn chống lại. Quýnh thuyết phục bọn quan lại nhà Thanh rằng chữ trung mình đã không giữ được thì xin cho về phụng dưỡng mẹ già để vẹn chữ hiếu. Bọn chúng bảo: “Chúa các anh ở đây, mà các anh không theo, thế thì trung được sao?”. Và bố trí cho vua tôi gặp nhau.
Tại cuộc gặp, các quan nhà Thanh cố lấy lời khéo dỗ vua Lê bảo bọn Quýnh cắt tóc. Bọn Quýnh khóc, lạy mà nói rằng: “Bọn Quýnh sống làm tôi nhà Lê, chết làm ma nhà Lê. Ngoài ra thì không phải sở nguyện” (BHTK).
Các quan nhà Thanh mắng: "Mệnh chúa anh, anh cũng không theo. Ấy há là đạo của kẻ làm tôi sao?" (BHTK). Quýnh trả lời: "Bổn phận kẻ làm tôi thờ vua vốn phải theo mệnh, nhưng cũng phải theo lẽ buộc đừng theo. Nếu có thể nhờ vậy mà không phục mệnh vua, thì ấy cũng là theo mệnh vua đó. Nay, cái mệnh bảo cắt tóc, ở miệng thì là mệnh, nhưng trong tâm thì không phải là mệnh. Bọn Quýnh nguyện theo cái mệnh trong tâm của chúa mình, kẻo chúa cũng bất đắc dĩ mới phải làm cái sự (các ngài) yêu cầu đó mà thôi" (BHTK).
Bọn quan nhà Thanh tiếp tục giam lỏng Quýnh. Cuối năm đó lại dụ Quýnh: “Cạo đầu thì vua tôi cha con sẽ đoàn tụ vui vẻ cùng nhau. Sao mà cứ một mực ngây ngốc, không chịu theo gần nhân tình đến thế?”. Quan bộ đường đề thẩm, chức thượng thư là Hồ Quý Đường, bảo rằng: “Các anh nếu không cạo tóc thì sẽ chết già trong ngục, chôn thây theo sở nhà tù. Cắn rốn (hối hận) sao kịp?” (BHTK).
Quýnh và ba người nữa tiếp tục bị giam. Đầu năm 1799, Quýnh lại làm tờ tâu:
“Chúa cũ là tôi con thiên triều. Quýnh là dân của chúa cũ, thì không những nghĩa và lý đáng phải tránh làm dân Nguyễn Huệ, mà tấc lòng tôi cũng không thẹn. Cúi xin trời che, đất chở, khí xuân nuôi, lòng bể chứa, bằng lòng cho bọn Quýnh về làm tên dân ở biên giới Lưỡng Quảng, được qua lại (đường ranh) buôn bán gần chỗ an trí. May chi được thăm viếng mẹ già và nuôi nấng, thì không còn điều gì oán tiếc. Nếu sức có thể đem gia quyến tới ở nội địa, thì cũng xin được tuỳ tiện mà làm..." Quan tả thị lang họ Hùng bảo: “Phải xin cắt tóc và xin cho ở cạnh doanh An Nam. Nếu không như thế, thì sẽ bị đưa an trí ở Nhiệt Hà. Các anh xin điều nào?”.
Bọn Quýnh lại trả lời như trước rằng:
“Xin thả ra để đem thân xác về. Được thế thì nguyện cắt tóc để tạ ơn trời. Nếu không được thế, thì xin giữ tóc để hợp lẽ trời” (BHTK).
Tuyệt vọng
Lại nói về Lê Chiêu Thống, trong thời gian ở Yên Kinh vẫn tiếp tục dâng biểu xin nhà Thanh cho viện binh về nước khôi phục nhà Lê. Nếu không được thì cũng cho mượn 2 châu Tuyên Quang, Hưng Hóa để xây dựng lực lượng, hoặc lẻn vào Gia Định cầu viện Nguyễn Ánh. Bọn quan nhà Thanh thì luôn tìm cách dối quanh để khất lần. Có lúc chúng bảo cho mượn đất Khâm Châu (Quảng Đông), có lúc bảo cho về Tuyên Quang. Có lần, bực quá, một tên dắt ngựa của vua Lê là Nguyễn Văn Quyên, phải chửi: “Bọn chó Ngô vô lễ, dám làm nhục vua ta”, rồi lấy gạch ở sân ném bừa vào bọn chúng. Đám quân lính giữ vườn nổi giận, xúm lại đánh Văn Quyên gần chết, đoạn bắt giam một tháng, Văn Quyên nhân thế bị bệnh mà chết.
Một người con của Càn Long biết sự tình của vua tôi Lê Chiêu Thống, có ý thương xót, liền khuyên Hòa Khôn lời lẽ phải chăng. Khôn tâu lại với vua, anh này liền bị đánh đòn, sau sinh bệnh chết. Từ đấy, vua Lê không còn dám nói đến việc xin quân cứu viện nữa, nhưng trong lòng uất ức khôn nguôi.
Mùa hè năm Nhâm Tý (1792), con đầu của Lê Chiêu Thống lên đậu rồi mất. Vua lo buồn sinh bệnh, thoi thóp nằm liệt không dậy được. Năm sau, bệnh nhà vua càng nguy kịch, rồi mất (Càn Long thứ 58, 1792), thọ 28 tuổi.
Ngày 11-10, niên hiệu Gia Khánh nhà Thanh (1799), Thái hậu (mẹ Lê Chiêu Thống) cũng mất ở "Tây An Nam doanh". Vua Thanh cho chôn cạnh lăng Lê Chiêu Thống.
Ngày mồng 4-4 năm Gia Khánh thứ 5 (Canh Thân, 1800), bọn Quýnh được thả ra khỏi ngục, dời đi ở cách phía tây kinh thành mười hai dặm, tại Lam Xưởng, an trí ở doanh Hoả Khí ngoài. Đầu tóc, ăn mặc được phép tự do. Phần mộ chúa cũ, được phép thăm viếng. Quýnh liền làm một bài thơ, trình quan bộ Hình và quan coi ngục. Bài thơ có câu rằng:
Kéo tóc khôn đền mưa móc mới,
Ngoảnh đầu sợ phụ núi sông xưa.
Tuy nhiên khoảng tháng 7-1883 lại bị bắt lại.
Trở về cố quốc
Năm Giáp Tý (1804), lúc này triều Tây Sơn đã mất, Nguyễn Ánh lên ngôi vua. Nhà Thanh cho Lê Quýnh cùng các quan tòng vong được đưa di hài Chiêu Thống về táng ở quê nhà và cho tất cả các người bề tôi trốn theo đều được về nước. Các bề tôi mở quan tài vua Lê Chiêu Thống (đã quàn 12 năm) thì thấy da thịt đã nát hết, chỉ có trái tim không nát, mà sắc máu hầu như vẫn còn đỏ tươi! (chi tiết này ghi trong HLNTC, không rõ thực hư thế nào).
Khi di hài vua Lê đưa về đến cửa ải, có bà hoàng phi của vua là Nguyễn Thị Kim nghe tin, liền từ Kinh Bắc lên cửa ải để đón linh cữu. Ngay từ hôm ấy, hoàng phi tuyệt thực, hằng ngày vật vã bên linh cữu mà khóc lóc. Ngày 23-8-1804, di hài đưa về đến Thăng Long, các quan thay hài cốt vua Lê sang một chiếc tiểu khác, thấy trái tim vẫn còn y nguyên.
Tế xong, hoàng phi đến trước hương án khóc lóc thảm thiết, rồi sau đó, uống thuốc độc tự tử. Người khắp nước ta và người Trung Quốc đều khen là bậc “tiết nghĩa”.
Các bề tôi trốn theo vua Lê, về sau, vào năm Tự Đức thứ 14 (1860), được nhà vua cho lập đền thờ ở phía tây thành Thăng Long, tại phường Thuỵ Chương, thuộc huyện Vĩnh Thuận. (Có tài liệu cho là ngõ 124, đường Thụy Khê, Hà Nội ngày nay). Chính giữa thờ Lê Quýnh (thuỵ là Trung Nghị), bên tả thờ 11 vị, bên trái thờ 11 vị, phía đông thờ 5, phía tây thờ 5. Như vậy tất cả gồm 33 người, đều được gọi là “Cố Lê tiết nghĩa thần” (các bầy tôi tiết nghĩa đời Lê) và ngôi đền cũng đề là “Cố Lê tiết nghĩa từ” (đền thờ các bậc tiết nghĩa đời Lê).
Theo chúng tôi, Lê Quýnh và một số “tiết nghĩa” nói trên chỉ đáng khen mỗi việc kiên quyết không gọt đầu gióc tóc như người Thanh, dù bị tù đày, đe dọa, mua chuộc thế nào, chứ hành động bán nước là không thể tha thứ. Mặt khác, tình cảnh của họ cũng như vua Lê những ngày sống lưu vong và bị giam cầm trên đất Trung Quốc cũng có phần đáng thương. Nhận định về Bắc hành tùng ký, nhà nghiên cứu Nguyễn Đăng Na viết: “Tác giả đã ghi lại tâm trạng đau khổ, uất ức, tủi nhục của mình nói riêng, của vua tôi nhà Lê nói chung trong những ngày sống trên đất Trung Hoa. Tác phẩm như một tấm gương phản tỉnh những ai có ảo tưởng “phục quốc” bằng con đường dựa vào người nước ngoài” [ii].
Đ.T.T
[i] Hoàng Lê nhất thống chí là một tác phẩm tuy viết theo hình thức tiểu thuyết chương hồi nhưng thực chất là một ký sự lịch sử ghi chép người thật việc thật.
[ii] Nguyễn Đăng Na: Văn xuôi tự sự Việt Nam thời trung đại, Nxb Giáo dục, 2001.
http://xuandienhannom.blogspot.com/2012/01/so-phan-le-chieu-thong-va-oan-tong-vong.html
Bài liên quan:
- Đống Đa - Mồ Chôn Xác Quân Xâm Lược Nhà Thanh
-
- Details
- Parent Category: Thư Viện
- Category: Viết Về Nước Mỹ "Chọn Lọc"
Lời giới thiệu:
Bài dự thi viết về nước Mỹ gửi từ Sài Gòn bằng email, được đăng nguyên văn, không thêm bớt! Bài viết ngắn, tác giả 30 tuổi, cho biết: đây là những câu hỏi mong được các chú bác anh em ở Mỹ trả lời!!!
- Details
- Parent Category: Thư Viện
- Category: Truyện Ngắn, Thơ
Cao Quế Lâm
Tôi trở mình ngồi dậy, với tay bật công-tắc đèn ngủ đầu giường, uống vội viên thuốc cảm. Trận cúm "định kỳ" cuối năm vật tôi tơi tả hơn con mèo mắc nước ngày mưa.
- Details
- Parent Category: Thư Viện
- Category: Văn Hóa - Luân Lý - Đức Hạnh
Khi nhìn nhận bất cứ một vấn đề gì chúng ta cũng phải có cái nhìn khách quan, đầy đủ hai mặt của vấn đề, trên nhiều phương diện giữa tốt và xấu, tích cực và tiêu cực, từ đó rút ra vậy cái gì nên phát huy và cái gì nên hạn chế.
- Details
- Parent Category: Thư Viện
- Category: Thuộc về lịch sử
Bài cũ, 29/05/2012
400 - Mã đề dương cước anh hùng tận
401 - Thân dậu niên lai kiến thái bình
Trong lịch sử Việt Nam, nhà tiên tri đầu tiên được mọi người biết đến là Thiền sư Vạn Hạnh (938-1025) với những câu sấm về việc xuất hiện nhà Lý. Hơn 500 năm sau, xuất hiện Trạng Trình - nhà tiên tri thứ hai. Ở Pháp, cùng thời với Trạng Trình có nhà tiên tri Nostradams (1503-1566) sinh trưởng ở thành phố Saint Re'my thuộc xứ Provence.
Trạng Trình sinh trước (1491) và mất sau (1586). Năm 1986, kỷ niệm 400 năm ngày mất của Trạng Trình, người ta hay nhắc tới câu sấm tiên đoán về sự trở về của ông: "Bao giờ Tiên Lãng xẻ đôi - Sông Hàn nối lại thì tôi lại về". Từ đấy, Trạng Trình trở về với thời đại chúng ta thực sự.
Năm 1991, kỷ niệm 500 năm ngày sinh ông, đã có một lễ kỷ niệm trọng thể của Nhà nước diễn ra tại Văn Miếu - Quốc Tử Giám, Hà Nội. Năm nay, kỷ niệm 520 năm ngày sinh ông (1491-2011), chưa biết chúng ta sẽ làm gì, nhưng vào dịp cuối năm cũ (2010), cụ đã "gặp" nhà ngoại cảm tên Phương người Giồng Trôm, Bến Tre và chỉ cho ông tìm ra mộ thật của mình với ước muốn để cháu con và hôm nay biết đúng chỗ và thờ cúng. Theo chỉ dẫn của cụ, nhà ngoại cảm đã tìm được mộ cụ ở làng Triền Am, Vĩnh Bảo, Thành phố Hải Phòng.
Sinh thời, Trạng Trình cùng bạn thần đồng Bùi Ngu Dân (thường gọi là Bùi Công) thường rủ nhau bàn định bấm đoán về vận nước. Hay tin Mạc Đăng Dung muốn thoán ngôi vua Lê, cặp tri kỷ cùng nhau đoán định. Trạng Trình thì viết vào lòng tay thất ngôn tứ tuyệt: "Long vĩ xà đầu khởi chiến tranh - Can qua xứ khổ đao binh - Mã đề dương cước anh hùng tận - Thân dậu niên lai kiến thái bình" (Cuối năm rồng, đầu năm rắn xảy ra chiến tranh - Nạn binh đao ở khắp mọi nơi - Cuối năm ngựa, đầu năm dê anh hùng mất hết - Qua năm khỉ, năm gà sẽ thái bình).
Trong lịch sử quả thật, Mạc Đăng Dung đã thực hiện lập Lê Cung Hoàng lên ngôi, sau đó sai giết Lê Chiêu Tông vào năm sau năm Ất Dậu (1525) và đoạt ngôi vào năm Đinh Hợi (1527) lập ra triều Mạc. Bốn câu này khi vào tuổi già, Trạng Trình ghép vào trong bài sấm ký dài của mình thì lại được dùng để nhận định vào thời đại của chúng ta từ năm Canh Thìn (1940) đến năm Ất Dậu (1945).
Vào những năm Việt Nam hết sức rối ren giữa các thế lực nhà Lê với nhà Mạc, giữa Trịnh Kiểm và Nguyễn Hoàng, chỉ với 6 câu thơ tiên tri, Trạng Trình đã thu xếp được các thế lực vào đúng nơi trên đất nước khiến cho dân đỡ lầm than khổ sở trong nạn binh đao. Khi Nguyễn Hoàng xin ý kiến, ông đã tặng cho Nguyễn Hoàng hai câu thơ: "Hoành Sơn nhất đái-Vạn đại dung thân" (có bản đề là: "Khả dĩ dung thân"). Ý rằng hãy tìm đường vào phía Nam dựa vào dãy Trường Sơn mà tồn tại). Nguyễn Hoàng nghe theo xin Trịnh Kiểm vào trấn giữ từ Đèo Ngang trở vào. Khi người nhà Trịnh Kiểm hỏi ông về vị trí của mình, có nên thoán ngôi vua Lê không, ông trả lời: "Chịu khó mà thắp nhang- thờ Phật thì ăn oản" (Có nghĩa rằng phải thờ nhà Lê thì có lộc). Trước khi ông mất, nhà Mạc xin ý kiến tồn tại thế nào, ông đã đọc hai câu thơ: "Cao Bằng tàng tại - tam đại tồn cô" (nghĩa rằng rút về đất Cao Bằng thì sẽ sống thêm được ba đời nữa). Nhà Mạc đã theo kế ấy và đã tồn tại được thêm ba đời nữa thật.
Lại có giai thoại kể rõ, Quan Thượng Tứ - Tổng Đốc Hải Dương có lần về thăm quê Trạng Trình. Khi đi dọc sông Tuyết Giang, thấy có ngôi mộ lớn đang có nguy cơ sụp lở, Thượng Tứ xem xét cẩn thận, thấy Trạng Trình là thầy rất "cao tay" sao lại đặt mộ bố ở chỗ thế này. Sau khi bàn bạc với con cháu Trạng Trình, Thượng Tứ quyết để lại ngôi mộ vào chỗ khác, ngầm sửa lại lỗi xưa của Trạng Trình. Khi đào đến gần hộp quách, thấy có tảng đá lớn, lật lên xem thì thấy tấm bia khắc hai dòng chữ: "Bát thập niên tiền khí chung vũ tả - Bát thập niên hậu khí nhập ư trung" (Tám mươi năm trước khí tốt bên trái - Tám mươi năm sau khí tốt rời vào trong).
Bài liên quan:
-
- Saigon 1988 - Đón người thân "học tập cải tạo" từ miền Bắc trở về tại ga Saigon
- Ký ức của một chiến binh - Người về trước mùa Xuân 1980
- Các bài viết về “Khủng bố ở Little Saigon” (Terror in Little Saigon)
- Trận Chiến Khe Sanh (21-01-1968)
- Hồi ức của một sĩ quan tuỳ viên ĐT Cao Văn Viên
- Chuyến đi 3 ngàn dặm của Minh Tâm
- Lịch Sử Nha Kỹ Thuật / Trung Tá Lữ Triệu Khanh
- Lớp Học các cấp của môn phái Vi Diệu Pháp Hành Thiền
- Tiến sĩ Dasira Narada - Người khai sáng (TỔ SƯ) Bộ môn NĂNG LƯỢNG SINH HỌC
- Tôi khóc vì Việt Tân - Hoàng Lan-Chi